Người theo dõi
5 thg 3, 2011
CHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
Bây giờ người ta quan niệm Chữ Nho là một thứ văn tự lỗi thời, thuộc về
thời quá khứ, nay cứ đem ra làm trò cười cho thiên hạ. Nhưng nếu chúng ta nhận
một số sách Nho làm Kinh điển, thì nhất định chúng ta phải học chữ Nho .
Thưa là vì chữ Nho có liên hệ với nước ta. Thiếu chữ Nho không thể hiểu
trọn vẹn tiếng Việt. Đó là lý do đúng nhưng tuỳ phụ. Bởi vì có biết
bao nhiều người không học chữ Nho, mà vẫn hiểu tiếng Việt, và viết văn Việt còn
hay hơn những người biết Nho là khác. Ngoài ra còn phải ghi nhận tính chất bật
rễ của lý lẽ trên, tức là nhấn mạnh đến văn chương ngôn ngữ, đó là theo Tây,
đặt ngôn Từ ( lời ) trên hết, ngược hẳn với Đông phương đặt Ngôn Từ ( lập
Ngôn ) xuống hàng ba sau Thành Công ( lập Công ) và Thành Nhân ( lập Đức
). Thực ra nếu chỉ nhằm có mục đích hạn hẹp về ngôn từ, thì bỏ Nho là
phải. Vì không có chữ Nho tiếng Việt vẫn có thể phong phú cách này hay cách
khác, và công nghệ, kỷ nghệ vẫn tiến như thường, nên đứng về hai mặt này thì
tiếng Anh giúp ta nhiều hơn chữ Nho.
Vậy lý do đưa chữ Nho vào phải lấy từ đợt nhất là “ lập
Đức ” tức là thành Nhân và ở đây thì tiêu chuẩn phải đổi. Ở thành Công cũng như
học viết học đọc thì sự mau lẹ là nhất, nhưng ở thành Nhân lại phải chú trọng đến
sự sâu xa, thâm trầm giàu chất rung cảm lay động tới nền móng vô thức con người
Việt Nam chúng ta, và lúc ấy thì chữ Nho trở thành cần thiết, không thể lấy
Chuyển Tự thay thế, và dù có khó học đến đâu cũng phải học và còn nên coi đó
như một may mắn lớn lao cho nền văn hoá nước nhà. Bởi vì một tác phẩm càng
khó thì càng có sức giáo hoá mạnh, vì nó đòi phải có nhiều tập trung tinh thần
và nhờ đó dễ có tư tưởng. Và đấy là chỗ lợi hại của Tử ngữ hơn Sinh ngữ.
Sinh Ngữ học đâu hiểu đó liền. Tử ngữ bắt người học phải tìm ý
tưởng qua gốc tiếng, hay mối liên hệ với toàn bích và đấy là dịp cho các học
giả trở nên sâu xa trong khi tìm ý nghĩa ám hợp nhất trong rất nhiều ý tưởng
gợi lên do một tiếng.
Chính vì thế một nền văn hoá sâu xa bó buộc phải có hai
loại ngôn ngữ: một thứ thông dụng hàng ngày trong công việc làm ăn, cũng như
trong công việc truyền thông mọi ý tưởng từ công nghệ kỷ nghệ lên tới đạo lý và
đó là chữ quốc ngữ hoặc là chuyển tự, và chuyển tự đã chơi vai trò đó một cách
tuyệt vời.
Xét trong thế giới đố ai tìm đâu ra chữ dễ đọc hơn Thông
ngữ Việt. Ta ghi ơn những người có công thiết lập ra lối văn tự này. Tuy
nhiên ta phải nhận thức rằng Thông ngữ mới chỉ nắm vai trò vòng ngoài gắn liền
với lý trí giác quan rõ rệt và dễ dàng.
Thế nhưng nếu nền giáo dục chỉ có những cái dễ dàng minh
bạch, khúc chiết, thì nền giáo dục đó làm cho con người học chóng trở thành bì
phu thiển cận, hời hợt, bởi “ dễ học thì cũng dễ quên ” : “ easy come.
easy go ”.
Vì thế, mà cần một lối văn tự khác, một ngôn ngữ khác để
chuyên chở những cái sâu xa, những di sản sơ nguyên của dân tộc. Vì là sơ
nguyên ( primitif ) nên cũng là tối hậu ( irréductible ), vì nối liền với
nền minh triết tiềm thức ( subconscient Wisdom ), tức là cái u linh, cảm nhiều
mà nói ra rất khó, vì nó gắn liền với niềm vô thức, cần một ngôn ngữ thiếu
đường viền, với những bờ cõi nhập nhằng trồi sụt giữa các loại từ với một
ngữ pháp lỏng lẻo . . . , và với ta đó là chữ Nho .
Nho là thứ chữ của Minh triết, của tiềm thức hơn bất cứ
cổ ngữ nào trong nhân loại, nên bất cứ cổ ngữ nào cũng đều đã trở thành tử ngữ,
chỉ riêng chữ Nho là trở thành Linh Ngữ Linh Tự, tức vẫn sống mạnh và đầy uy
lực đầy cảm xúc như bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng nhận ra. ( chẳng hạn xem Granet : Pensée chinoise
, trang 36 , 39 , 62 )
Vì thế ta phải coi chữ Nho là một đặc ân mà ít dân tộc nào có được. Mà cũng
vì không có, nên văn hoá của họ chỉ có Sinh ngữ và Tử ngữ. Tử
là chết nghĩa là không gây ảnh hưởng vào việc định hướng đời sống văn hoá hiện
tại là bao nhiêu. Và vì thế mà văn hoá thiếu mất chiều sâu. Cho nên văn
hoá nước nhà nằm trong miền ảnh hưởng của chữ Nho là một ân huệ, và ta cần khai
thác triệt để ân huệ đó.
Vì thế ta sẽ coi chữ Nho là cơ sở vòng Trong căn để Minh
triết, còn Thông ngữ ở vòng Noài thuộc thành công, văn học, văn nghệ, văn
chương. Nhờ có hai ngôn từ như thế nền văn hoá nước nhà có khả năng trở
thành phong phú sâu xa với một cơ sở tinh thần rất mạnh mẽ. Và lúc đó văn hoá
nước nhà mới có Linh Tự ( hiéroglyphe ) làm căn để cho Linh Ngữ , mà Linh
Ngữ là chìa khoá mở vào kho vàng tiềm thức bao la, thiếu nó thì một nền văn hoá
có xán lạn đến mấy cuối cùng cũng không đủ sức quyến rủ được con người muôn
thuở.
Vì nếu chỉ có sức quyến rủ hay đúng hơn chỉ có ơn ích cho con người phải
sống trong xã hội, phải ăn làm nói năng, phải thành công, phải giải trí thì
chưa đủ . . . , vì phần sâu xa nhất là tính bản nhiên con người
chưa có chi đáp ứng. Cái đó là việc của Linh Ngữ Linh Tự.
Chính vì thiêu Linh Ngữ mà văn hoá Tây Âu tuy rất phong phú dồi dào nhưng
không vượt qua nổi trình độ du hí ( tuồng kịch , tiểu thuyết . . . ) ,
không sao vươn tới nổi triết lý . . , để đến nỗi “ vất cho ăn nó vẫn
chưa no ”. Đó chỉ là câu nói tàn nhẫn, nhưng rất thật vì chúng ta chưa hề
thấy có những chiến sĩ hi sinh hiến thân tâm cho nền văn hoá đó, ví là nền văn
hoá duy Trí, duy Chí (volonté ) nên quá hời hợt. không thể lôi cuốn được con
người có cả vòng trong là Tiềm thức mênh mông vô bến. Cũng vì thiếu vòng
Trong nên giáo dục Tây Âu đặt trọn vẹn trên Lý Trí và Ý Chí mà thôi, thiếu hẳn
một dung cụ, đào sâu vào cõi vô thức ( xem vocation sociale của Gurvitch I. 148
) .
Nền giáo dục nước ta nay gọi là vong bản, chính vì cũng chỉ có thành công
và du hí : văn chương, tiểu thuyết, văn học, triết học.
Muốn có phần Tâm linh thì Tây phương hình như bất lực, không phải vì họ kém
ai, chỉ vì họ đã không may không còn Linh Ngữ nữa. Ngược lại với Việt Nam,
muốn cho nền giáo dục bớt bì phu, thì chỉ có việc đưa Nho trở lại chương trình.
Một khi đưa Nho vào là có một lợi khí thống nhất. Thống
nhất với tiên Tổ xa xưa, thống nhất với các thế hệ hai ba ngàn năm sau sẽ có
một chuyển ngữ khác, và khó lòng hiểu được tiếng nói Việt Nam hiện
tại. Nhưng về Linh Tự thì lại cũng học một thứ chữ Nho như tiền nhân và
cũng như ta nay, thành ra trong cái biến thiên là Chuyển Ngữ của mỗi đời lại có
một Linh Ngữ đời đời giống nhau để làm mối liên lạc văn hoá ràng buộc các thế
hệ với nhau theo hàng dọc đặng làm xương sống bơm sinh khí là hàng ngang là văn
hoá mỗi thời. Cái bí quyết làm cho văn hoá Viễn Đông mạnh mẽ sâu xa là ở
đó: ở chỗ không những có tiếng nói cho cá nhân mỗi thời mà còn có tiếng nói cho
dân tộc trải qua mọi đời.
Muốn cho được ơn ích trên chúng ta cần phải bàn xem nên dạy chữ Nho cách
nào.
CHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
2- Dạy Nho cách nào?
Điều này tối quan trọng, vì có những cách dạy chữ Nho mà vẫn bật rễ như
thường.
Ta hảy thử kiểm điểm xem có bao nhiêu lối học chữ Nho. Thưa có ít
là ba lối:
a.- Một là học như một Sinh Tự
b.- Hai là học theo lối Sinh Tự, Sinh Ngữ
c.- Ba là học như là Linh Tự, Linh Ngữ.
Học như sinh tự là của người Tàu, họ đã biết Sinh
Ngữ rồi, không cần học lắm nữa, nay chỉ học thêm mặt chữ, vậy gọi là
Sinh Tự.
Người ngoại quốc muốn học chữ Tàu phải học cả Sinh Tự lẫn Sinh
Ngữ, nghĩa là học cả chữ lẫn tiếng.
Còn lối giáo dục khi được đưa Nho vào thì cốt yếu dạy
theo lối Linh Tự, Linh Ngữ, nghĩa là học Nho là học cái Đạo làm Người, mà
Tiên Tổ đã bao đời kinh nghiệm tích lũy lại. Nói cụ thể là lấy ngay những
sách đã được tuyển chọn làm sách dân tộc làm kinh điển để dạy. Dạy như thế
trước hết là nhắm vào nội dung, rồi mới đến mặt chữ. Mặt chữ phải giúp vào việc
duy trì nội dung. Nên khi học Nho theo lối linh tự linh ngữ thì khi học xong
người học đã được truyền thụ lại cho một nền đạo lý của Tổ Tiên, có thể dùng
làm mối dây để xỏ thêm các sự hiểu biết mới, thành ra phong phú tới đâu cũng có
một tiêu điểm để hướng tới, rồi có thể làm cho thêm phong phú, như thế là có
tiêu điểm để y cứ, để khỏi vật vờ và nhờ đó trở nên mạnh mẽ. Đó là mục
tiêu tối hậu của giáo dục.
Nói khác đi khi dạy Nho theo Linh Tự hay Linh Ngữ là người dạy đã làm tôn
hẳn giá trị của chữ Nho lẫn giá trị người dạy, ngược lại dạy khi dạy theo lối
Sinh Tự Sinh Ngữ chỉ là việc của nhà chuyên môn, hiện nay không mấy cần thiết.
Xin ghi nhớ rằng lối dạy này là đi từ tổng quát tới phân
tích là lối được nền giáo dục mới đang khám phá ( Méthode globale idéovisuelle
của Decroly ), bắt đầu dạy thuộc lòng câu sách, rồi sau đến nhận mặt chữ, ít
năm sau đến ngữ luật, rồi ít năm sau lại đến ý tứ sâu xa. Đó là lối đi từ tổng
quát thị giác đến ý nghĩa: rất hợp tâm lý vậy.
Mặt khác đem Nho giáo mà dạy cho các em là đặt các em vào trong thế
giới ngôn ngữ của tiềm thức ( substract linguistique
inconscient ) với những danh từ không bị quy định để quyện theo sức mạnh của
cảm xúc, rất dễ giúp đi vào vùng tiềm thức nghĩa là có được những trực giác
giàu nội dung tâm tình sâu xa. Cần nhất là học thuộc lòng, rồi thứ đến là
nhận mặt chữ và biết nghĩa đen mỗi câu và chỉ cần có thế. Đề nghị này nghe như
chướng tai, nhưng nghĩ thế là tại óc duy trí hiện tại. Theo duy Trí thì
chỉ có Lý trí mới có giá trị, nên giáo dục thường bị cám dỗ dạy trẻ như kiểu
người lớn là tập suy luận. Đó là sự quá trớn của óc duy lý, chuyên tôn thờ
óc suy luận mà hạ giá mọi năng khiếu khác, nhất là trí nhớ, coi sự thuộc lòng
như là học tủ, không hiểu chi . . Đó cũng tại sự phản động lại lối
học từ chương xưa đã quá quan trọng việc ký tụng thuộc lòng.
Đã nói tới phản động là nói tới quá trớn không còn nhận ra giá trị của trí
nhớ, và coi học thuộc lòng là vô bổ, không biết tới 4 đợt suy luận của con
người mà ta đã nêu trên.
Trẻ chưa mở mắt đã dạy suy luận ngay là sai lầm. Sự sai
lầm đó đang được khoa phân tâm vạch trần, bằng tìm ra những ơn ích sâu xa của
sự học thuộc lòng: lúc đã đọc đi đọc lại một số câu thì chú ý không phải là để
ở giòng chữ với nghĩa nữa, nó rút dần vào nội tâm để gây tác động. Tác động đó
càng mạnh khi bản văn đã học thuộc lòng lại là bản văn đã đúc kết tư tưởng vào
trong những câu vắn tắt cô đọng, lúc đó những ý tưởng dễ thấm sâu vào tiềm thức
và gây ảnh hưởng mạnh mẽ ngoài tầm sức của lý trí và ý muốn.
Đó là luật tâm lý học đã được các nhà phân tâm nhận ra và áp dụng vào việc
tự kỷ ám thị “ des paroles répétées inconscienment ont une action. On peut
admettre une sorte de concentration parfaitement machinale et inconsciente ”.
Sự học thuộc lòng được nhận ra có công hiệu giúp rất nhiều vào việc làm
tăng trưởng sự chú ý kéo dài ( attention volontaire soutenue ), vì thế đó là
trong những cột trụ của giáo dục. nên câu nói : “ lặp lại nhiều lần là
linh hồn của sự dạy dỗ ”, có thể coi như châm ngôn của nhà giáo dục
nhất ở đợt tiểu học ( la répétition est l’âme de l’enseignement: xem
Suggestion et Autosuggestion của Charles Baudoin, édition Delachaux,
trang 126, 133, 144 )
Có đọc nhiều Phân Tâm ta mới hiểu Đông Tây, Kim Cổ đều
coi trọng việc ký tụng, có tôn giáo còn làm thành những lời thần chú, những
kinh cầu để nhật tụng là cốt cho tư tưởng được ngấm sâu vào tới tận tiềm
thức. Trong cuốn “ Les fondements de la mystique tibétaine ông Govinda có
viết : “ Dùng cách lắp đi lắp lại có nhịp nhàng để đóng sâu vào một tư tưởng,
tạo dựng một ý nghĩ, thì hiệu năng sẽ quy kết lại như giọt nước nhỏ xuống không
ngừng cho tới khi nó thấu nhập mọi cơ thể của hoạt động và trở thành một sự
kiện cụ thể của lý trí hay cả xác thân, trang 189 ”.
Như thế là khoa Phân Tâm cũng như khoa Huyền Niệm đều công nhận sự học
thuộc lòng là rất cần thiết.
Do đó ta biết tại sao lúc xưa nhiều người học chữ Nho rất
lơ mơ, mà lại sống theo Nho được rất nhiều, là vì nhờ học Nho từ còn bé, học
thuộc lòng, nên đàng sau mỗi câu nói là một nguồn sống tâm linh kết tinh do
biết bao nhiêu cảm xúc và kinh nghiệm của người xưa như còn phảng phất đâu đây,
như được bọc trong ánh bình minh của dân tộc lúc còn đang bập bẹ dưới ánh sương
mai của quê nước.
Nay mỗi thế hệ cũng như được học những câu sách đó nên mỗi câu hầu như được
học bằng bầu khí tươi vui thơ mộng của thời khai quốc, của dân tộc, nên mỗi câu
có thể xem như hồng huyết cầu thêm sinh khí cho cơ thể tinh thần, đồng thời gây
nên giữa tất cả những người đã học một số những phản đáp có điều kiện làm nên
một thứ quê hương tinh thần với một thứ ngôn ngữ riêng của nó tuy rất âm u,
nhưng chỉ cần nhắc lại một hai câu thì hầu như tất cả đều rung lên theo một
tiết điệu ràng buộc mọi người dân trong nước “ mối tình giáo khoa thư
”. Những ai đã có dịp xuất ngoại trong khi gặp người đồng hương nhắc đến
một hai điệu hát cung hò, vài ba câu sách đã cùng học ở tuổi niên thiếu là khơi
lại cả một khối tình u linh bát ngát khiến cho cảm thấy được cơ sở tinh thần
của nước và mối tình dân tộc trở thành mạnh mẽ lạ thường.
Cho nên chương trình lý tưởng của bậc tiểu học phải gồm
mấy sách nòng cốt của dân tộc, và hầu như không nên thay đổi. Chính vì thế phải
học thuộc lòng bản văn, chứ không học bản dịch ( thí dụ Kinh Thi ), vì bản dịch
sẽ thay đổi theo mỗi thời, rất cần cho mọi thế hệ gặp nhau.
Phương chi ở tiểu học không cần thay đổi, vì đây mới học
những điều căn bản, là mấy yếu tố hầu như không mấy đổi thay. Đàng khác
đối với trẻ nhỏ thì cái chi cũng còn là mới mẻ không cần phải luôn luôn đổi
mới, khác với chương trình đại học năng phải đổi để theo kịp các bước tiến bộ.
CHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
( Kim Định : Chung quanh vấn đề Quốc học )
“ Nếu nhận chủ trương chữ Việt Nho thì bó buộc phải học chữ Nho, một việc
có thể coi là phiền toái. Tuy nhiên, nếu xét bao trùm thì đấy là một sự may
mắn, vì chữ Nho đáp ứng cho ba nhu yếu nền tảng của con người, mà ta có thể chỉ
thị bằng ba tiếng: Thiên, Địa, Nhân.
Chỉ nhu yếu con người thích bay bổng để nhìn bao quát, thường biểu lộ qua
óc tưởng tượng, sự ham thích những chuyện thần tiên, những gì mơ mộng, tự do
phóng khoáng.
Chỉ nhu yếu thiết thực, cần phải xác định, róc đường viền, biên giới minh
bạch như đếm đo cân lường, thường biểu lộ bằng óc toán, óc khoa học thực
nghiệm, óc pháp độ đâu ra đó.
Chỉ nhu yếu tổng hợp hay dàn hoà giữa hai nhu yếu trái ngược trên kia, và
ta gọi là Tình Ý tương tham,trong đó “ Tương tham “ chính là nhu
yếu tổng hợp này, và con người lý tưởng là con người tổng hợp đúng mức
hai yếu tố trái ngược nhau như Tình và Lý, như hồn thơ với khoa học, như Thiên
với Địa . . . Trong câu Tình Lý tương tham, thì Tình chỉ Thiên, Lý
chỉ Địa, Tương Tham chỉ Người.
Đó là ba nhu yếu nền tảng của con người mà Tiên Nho đã hé nhìn thấy và nói
lên trong câu : “ Nhân giả kỳ Thiên Địa chi đức ” , Người là
cái đức của Thiên và Địa , hoặc nói khác đi cái nhu yếu căn bản của con người
là hoà hợp cả hai nhu yếu trái ngược: vừa muốn vươn lên mây như thi sĩ lãng
mãn, vừa muốn thăm dò đo đếm tường tận sự vật như nhà khoa học . . .
Trong các triết gia hiện đại có Whitehead đã nhìn thấy ba
nhu yếu đó và ông gọi là : Romance, Précision, Généralisation, và
đưa ra làm ba nhịp chính cho nền giáo dục mà ông đề nghị:
Romance
Có thể dịch cách rộng là lãng mãn tính, ưa mở rộng, đi với lối biết tổng
quan, cần nhiều yếu tố mới lạ, mà chưa cần đi tới những tiềm năng của mỗi sự
kiện. Ta có thể có thể gọi là giai đoạn “ Hưng ư Thi ” , hay
là thời phát triển trí nhớ và óc tưởng tượng.
Précision
Là giai đoạn khởi đầu phân tích, xác định và cố biểu lộ bằng những công
thức cách cặn kẽ kiểu khoa học, có thể ví với “ Lập ư Lễ ”.
Généralisation
Là giai đoạn kiểm điểm lại những tri thức thâu lượm ở giai đoạn I, cộng
thêm những chi tiết đã phân tích ở giai đoạn II để khám phá ra mối liên hệ
chung, những luật tắc ràng buộc các vật, các sự kiện lẻ tẻ. Đó là việc giai
đoạn III.
Trở lên có thể coi là giai đoạn đi được với ba nấc : Tiểu và Trung,
Đại học,với ba quan năng được chú ý đặc biệt để phát triển:
1.- Hợp với tuổi là trí nhớ và óc tưởng tượng ở Tiểu học.
2.- Lý trí suy luận phân tích ở Trung học.
3.-Và phát minh sáng chế ở Đại học.
Chỉ cần nhấn mạnh đây là những nét lớn với ba cõi nhập nhằng sồi sụt, nhất
là với cá nhân đặc biệt vượt xa khỏi luật chung đó. Tuy nhiên đấy là luật
chung có thể hướng dẫn chúng ta và cần phải dùng mọi phương thế để phát triển
cả ba nhu yếu đó.
( Anh, Pháp, La Tinh )
Trong các phương thế bén nhạy phải kể tới tiếng nói. Vì thế một nền quốc học hoàn bị
ngoài việc theo ba nhịp của giáo dục, thì cũng nên có ba loại ngôn ngữ ám hợp
với ba nhu yếu kia. Ông Whitehead đã đề nghị cho nước Mỹ một tam
giác ngữ gồm: Anh, Pháp và La tinh.
Trong đó hai tiếng Anh Pháp biểu lộ tâm trạng đời mới,
còn tiếng La tinh là để móc nối ngược lên đến nguốn gốc văn minh Điạ Trung hải:
“ In English , French
And Latin, we posses a triangle, such that one pair of vertices English and
French exhibits a pair of diverse expressions of two chief types of modern
mentality, and the relation of these vertices to the third exhibit alternative
posseses of derivation from Mediteranean cililisation of the past ( The aim of
education , page 67 ) .
Tiếng Anh là Thông Ngữ
đáp ứng nhu cầu tổng hợp hay là Nhân, Pháp là Sinh Ngữ biểu thị Thiên, La tinh
Tử ngữ biểu thị Địa.
Ông cho rằng là tiếng
thiết yếu phổ biến không thể dùng nó để khóc, còn cười thì chưa chắc: It can
not laugh, it can hardly cry. Bấy giờ cần một tiếng chỉ Thiên, lẽ ra là
tiếng Hy lạp chơi vai trò đó ( The languages of Heaven will be Chinese, Greek,
French, German ). Vì ngôn ngữ đại diện cho Thiên phải biểu lộ được
những nét phổ biến như Nho, Hy Lạp, Pháp, Đức . . . , như vậy lẽ ra phải
học tiếng Hy Lạp, nhưng nếu học Hy Lạp thì hoá ra hai Tử
ngữ.Vậy đã học La tinh thì phải bỏ Hy Lạp và thay vào bằng tiếng Pháp để có một
Sinh Ngữ mới đủ sức làm cho Tam giác ngữ sống động. Nhìn xem tam giác ngữ
trên, ta thấy sự nông cạn, vì bỏ mất tiếng Hy Lạp, còn sâu hơn tiếng La tinh
nhiều. Thế nhưng hoàn cảnh không cho phép làm khác được.
CHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
Về nước ta, thì không gặp khó khăn với hai Tử Ngữ trên
đây, nên không gì ngăn cản chúng ta đưa chữ Nho vào chương trình để thoả mãn
nhu yếu Thiên: tức là lòng ưa gì thâm sâu phổ biến, tức cũng là những đức tính
Minh triết, và về điểm này không một ai dám tranh thủ với chữ Nho, ngay như ông
Whitehead dù không biết đến chữ Nho cũng phải kể đến chữ Nho trước hết trong
bảng các tiếng chỉ Thiên, sau đó mới đến Greek, French, German. . . ( Aim of
education , page 68 ). Sở dĩ như vậy vì chữ Nho là thứ
chữ tổng hợp hơn hết trên thế giới này nhờ lối viết tượng hình của
nó, nên vượt xa các chữ Nêm của cổ Egypt, vì cũng còn có chữ Nho là duy
nhất xứng danh là Linh Tự.
Bởi thế, với tam giác chữ: Nho, Việt, Anh ( hay Pháp )
nền quốc học của chúng ta sẽ đứng vào hạng nhất trên thế giới để khỏi nói nhất
trong việc đáp ứng ba nhu yếu thâm sâu của con người. Chính vì thế ta mới
hiểu được sức lôi cuốn kỳ lạ của chữ Nho trên cả những học giả Tây phương. Hễ
ai đã học chữ Nho sâu đều công nhận sức thôi miên ma thuật của nó. Nếu có
chữ nào trên thế giới so sánh được với chữ Nho phần nào chăng thì chỉ là chữ
Tàu, nhưng Thông Tự của sự học lại khó quá và khả năng diễn tả những phân tích
xác thiết lại kém quốc ngữ của ta. Vì thế mà phải đưa Nho làm gốc
cho Thiên trong tam giác ngữ của nền quốc học ta, chỉ phiền là
khó nhớ, nhưng nếu được học từ nhỏ, thì không thành vấn đề. Khó nhớ là đối với
người lớn khi đã hết giai đoạn trí nhớ mà thôi. Còn Anh Văn thì cho Ðịa
và Việt ngữ cho Nhân.
CHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
“ Bây giờ mà còn nói đến việc học chữ Nho, có nhiều
người cho là chuyện điên rồ, vì lối học tầm chương trích cú cùng với việc chú
sở của Hán Nho đã làm cho nhiều người nhất là tân học có ý nghĩ Nho giáo được
gắn liền với quê mùa và lạc hậu. Thứ đến ta nói đến đây là Nho giáo hay
Nguyên Nho, khác với Hán Nho thứ mà đã làm cho nước ta bị chia lìa với gốc Tổ.
“ Nho giáo vốn gắn liền với văn hoá nước nhà, cho nên
bỏ Nho là toàn bộ lâu đài văn hoá Việt Nam sẽ sụp đổ. Lúc đó có vun tưới
Việt văn đến đâu cũng chỉ là trò chơi vụn. Thế nên không thể không nói tới mối
liên hệ giữa Nho và Việt. Hãy khởi đầu ngay ở từ ngữ.
Chỉ cần phân tích sơ qua đã thấy được liền điều
đó. Hầu như không mấy câu nói mà không có chữ Nho nằm trong, cho nên ngay
ở văn chương, nếu không có Nho thì đã thiếu đi một phần rất quan trọng
rồi. Ðó là phần ngữ căn, tức là phần sâu sắc nhất, nền tảng
hơn hết. Ta có thể thấy điều đó trong việc đặt danh hiệu, là phần tối hệ trọng,
mà phần lớn là chữ Nho. Nội việc đó đã chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa chữ
Nho và nước ta. Lý do thâm sâu là vì mối liên hệ đó nằm mãi ở phần đạo
lý, thì phải đào sâu tới đợt cơ cấu uyên nguyên, lúc ấy sẽ thấy Nho
giáo với Ta là một, từ tên các địa danh, tới vật tổ, vật biểu không đâu
thoát ra ngoài cơ cấu Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành . . .
Tên nước là Xích Quỷ, Văn Lang, Giao Chỉ, toàn là đi đôi.
Vật tổ là Tiên Rồng cũng lại lưỡng nghi.
Vật biểu là điểu long, sông núi, Ðịa danh là
Thăng Long, Hoành Sơn, Hà nội, Hà Nam, Cửu Long . . . đều biểu lỗ cơ
cấu lưỡng diễn của Nho giáo .
Ðến nỗi có một số nguời cố tình chối bỏ Nho, rồi dùng
vài ba yếu tố khác dựng nên một “ chủ thuyết Việt Nam ” thì chắc chắn là
nông cạn, mà cũng không sao thoát khỏi được cơ cấu của Việt Nho.
Sở dĩ có chuyện mỉa mai như vậy là vì ngay từ ngày lập
quốc tổ tiên ta đã nhận Nho giáo làm văn hoá của giống nòi.
Tôi ( triết gia Kim Ðịnh ) rất ghét hai chữ Khổng Mạnh
dùng thay cho đạo Nho, ghép thế là gieo hoả mù vào nguồn gốc Nho giáo, có hại
cho văn hoá nước nhà. Ngay việc Khổng Tử sáng lập ra Nho giáo cũng đã là điều
sai lầm rồi, vì không một yếu tố văn bản nào nơi Không Tử không tìm thấy nơi
những người trước ( Creel 346 ) . Muốn nói thật chính xác, thì mấy
hằng số của Nho giáo đều phát xuất từ Viêm Việt, chỉ xin kể hai thí dụ: một
là Lễ Gia Tiên, hai là Lưỡng Nhất tính.
Lễ Gia Tiên là đợt phát triển cao độ nhất của nền Nhân chủ tính (
do đó có tự do, bình đẳng . . . ) thì phát xuất do tục thờ cúng Tổ tiên.
Thế mà tục này đích thị của Viêm Việt.
Còn Lưỡng nhất tính trong văn hoá là
nét quý nhất hiện nay ( vì cần thiết cho nền văn hoá nhân loại ) thì phát xuất
từ Trống Quân. Mà Trống Quân cũng là ca Viêm Việt, cùng lắm là có chung với
Tàu. Vì ta thấy các bà mẹ nhà Thương, nhà Chu đều sinh con theo lối “ dã
hợp ” của Viêm Việt cả . Bà Hoa Lư cũng như bà Thái Khương có mang nhân khi đạp
vào vết chân người to lớn, bà Giản Ðịch, tổ nhà Thương thì nhằm lúc nuốt
trứng chim . . . Vậy thì, một là tục kia có bên Tàu ngay tự đầu, nếu thế
là của chung, hai nữa là các bà đó đi theo chiều hướng Viêm Việt, thì đã chịu
ảnh hưởng văn hoá phương Nam. Lối giải nghĩa này có lý hơn, vì về sau Hán tộc
chống đối lối dã hợp . Ngược lại Viêm Việt thì cố duy trì, cho mãi đến nay
nhiều nhóm còn giữ. Còn Hán tộc tuy chống đối ở gốc rễ của chất gia, nhưng phần
tinh hoa của Văn gia thì vẫn bảo trì như Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành . . .
đều phát xuất từ Lễ Hội Mùa Xuân.
Nẻo nào thì ta cũng thấy Nho giáo với văn hoá Việt Nam
cùng có chung những nền móng căn để mà tôi gọi là Hằng số, là tố nguyên. Khác
chăng là ở Nho giáo thì những hằng số đã được thăng hoa, được tế vi hoá và được
tổ hợp thành hệ thống khác. Vì thế khi đã nghiên cứu đến tận nguồn ngọn
thì sẽ nhận ra Nho giáo là báu vật trên hết của tiền nhân giối lại, muốn làm
người Việt Nam trung thực, cách sâu xa, thì không thể bỏ Nho.
Hơn thế nữa, trong hiện tình văn hoá nhân loại, chưa
có một nền văn hoá nào đạt được một cơ cấu vừa sâu xa vừa đầy đủ tính uyển
chuyển linh động cho bằng đến nỗi tới nay vẫn đủ khả năng đáp ứng được những
nhu cầu thời đại . ”
( Kim Ðịnh: Tinh hoa ngũ điển : Vấn đề học Nho )
Như vậy học chữ Nho là để nối lại với nguồn gốc, với
mạch sống của cha ông, lại nữa chữ Nho ( Nguyên Nho hay Việt Nho ) cũng có phần
đóng góp không nhỏ của Tổ tiên Việt. Quan trọng hơn nữa, chữ Nho la một linh
tự, linh ngữ, giúp ta đi vào cõi tâm linh, là miền mà nay cả nhân loại đang còn
tìm cách đi vào để cho đời sống được quân bình.
Học Nho cũng có năm bảy đường . Nếu học Nho theo kiểu
tầm chương trích cú thì sẽ không nhìn ra được cơ cấu, tức là phần tinh hoa
nhất, vì đã để cho những chú sớ bác học trùm lấp mất cái nền
tảng. Hoặc học Nho mà đọc các sách cổ điển như những sách ngày nay, nghĩa
là chạy ruổi thì sẽ không thấy gì, vì các sách này đã đi vào giai đoạn minh
giải rất rộng rất dài, đọc không cần suy, nên đọc nhiều mà hoá ít, và đọc xong
là hết ngay không có hậu. Ngược lại kinh điển Nho giáo lại quan trọng nhất ở
phần hậu, phần tác động chậm, thấm lần vào tiềm thức. Chứ như phần trình bày,
lại rất đơn giản đến độ mộc mạc. Tuy nhiên không mấy ai ( nhất là trong
thời đại hiện nay ) nhận ra được đó là thứ mộc mạc của uyên nguyên, phác thực,
nên rất dễ gây ảnh hưởng sâu đậm, vì bao giờ cũng giàu chất sáng tạo. Và
đó là lý do tại sao Kinh điển có một uy tín lâu dài được rất nhiều người tin
theo như Kinh Thánh, nên nó vươn lên vòm trời văn hoá, oai nghi như mặt trời,
lấn át mọi tia sáng của các vì sao khác.
Vì thế mỗi câu của nó có sức nặng ngàn cân, vượt xa
bất cứ quyển sách nào đời nay, dầu có hay đến đâu cũng chỉ được chú ý một thời,
giữa bao nhiêu sách khác. Ngược lại Kinh điển đã trải qua hơn hai ngàn năm
được tôn thờ và tùng phục cách tôn kính, nên đã để lại ấn tích sâu đậm trong
tiềm thức dân tộc. Chính vì thế mà Kinh điển vẫn phải được coi trọng hơn bất cứ
sách nào khác. Sự coi trọng đó sẽ được thể hện bằng cách đưa vào chương trìng
học từ thuở thơ ấu để được nó in sâu vào tiềm thức, cũng như được bao trùm bằng
quầng sáng bình minh mát dịu, làm bằng hồn nhiên tươi đẹp của tuổi thơ ngây. Ðiều
này sẽ được bù lại phần nào sự ồn ào tràn ngập sách vở ngày nay.
Sau đó là cần phải tiếp nối việc học theo cách
Việt Nho, thì mới mong làm cho sự học Kinh điển trở nên ích lợi, và gây
được hứng thú ngay cho tâm trạng thời đại.Vì vậy nếu ở bậc tiểu học chỉ cần học
thuộc lòng thì đến bậc trung học lại phải giải nghĩa, theo chiều hướng Việt
Nho, có thể quy ra ba yếu tố:
1.- Tìm về nguồn gốc Việt Nho khác với Hán
Nho, để trích lọc tinh hoa .
2.- Rồi đối chiếu với trào lưu tư tưởng
thế giới.
3.- Sau đó đi sâu vào cơ cấu, tức là phần
uyên nguyên minh triết, triết lý để rút ra những kết luận hợp với cảm quan thời
đại.
Yếu tố thứ nhất nhằm giúp chúng ta nhớ lại phần đóng góp Tổ tiên
xa xưa của Việt tộc, và nhất là giúp nhận diện được bản chất Nho giáo. Tiền nhân
ta thiếu phần này, nên ký tụng nhiều điều mâu thuẩn mà không hay biết, do đấy
thiếu một ý thức rõ rệt, được luận giải minh nhiên về Nho, nên không đủ mạnh để
đương đầu với sức tấn công của các tư trào nghoại lai, được minh – nhiên – hoá
một cách có hệ thống.
Yếu tố thứ hai chính là bầu khí của thời đại này, một thời đại gặp
gỡ, đối thoại giao thoa trên hết mọi lãnh vực, kể cả văn hoá mà có thể nói nhất
là văn hoá . Sự đối chiếu vừa làm cho chúng ta nhận được cách sâu xa những giá
trị cần phát huy, cũng như những nhược điểm lỗi thời cần phải bỏ, giúp sự học
trở nên ích lợi cho đời sống.
Yếu tố thứ ba là nhận ra tính chất phổ quát của nền văn hoá nuớc
nhà. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được một điều an ủi lạ lùng, là Việt Nho không
những giúp ta làm con người muôn thuở “ vi nhân ”. Nói cách khác,
Việt Nho chính là đạo làm người, thích hợp cho muôn nơi và muôn thuở .
Phần trích dưới đây là những tư tưởng chủ đạo của Tổ
tiên Việt, để cho các em học ghi sâu vào lòng, đó là những mốc tư tưởng, tuy có
nhiều câu các em chưa thể hiểu rõ được, nhưng sự học hỏi liên tiếp về sau sẽ
ngày càng một sáng rõ hơn. Những câu chưa có thể giảng cho các em rõ được,
thì chỉ nói khi các em học thêm sẽ hiểu lần.
Thiết tưởng ta cần nói
thêm một ít nữa về chữ Nho để chúng ta xác tín rẳng học chữ Nho
là cần tCHỮ NHO VÀ ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT (anviettoancau.net)
“ Ta cần biết chữ Nho có
những đặc điểm nào mà trên thế giới này không đâu có cả ? Thưa là vỉ chữTượng
ý.
Ví dụ: Chữ Nhân gồm bên
trái chữ nhân đứng ( người ), bên phải chữ nhị có hai nét ngang, nét trên chỉ
Trời, nét duới chỉ Ðất. ( 仁 = 人 + 二 )
Ý đầu tiên là con người
là một nhân chủ được đứng ngang hàng cùng Trời Ðất trong công
việc sáng tạo ( thuyết
Tam tài ), hai nữa chữ nhân viết ở bên trái, đó là đạc tính chuộng
bên trái của việt tộc (
tứ Di tả nhậm ). Ðó cũng là đặc điểm của Viêm Việt, thế mà nét đó
là nền tảng, nên Việt
Hoa đều có một đất đứng chung rất quan trọng. Chính chữ tượng
ý đem lại cho văn minh Việt
Hoa đức tính bền vững nhất trong nhân loại như sẽ bàn
dưới. Có được chữ
tượng ý là nhờ tiếng độc âm.
Ðiểm này giúp cho chữ
tượng ý đạt mọi cái hay của chữ là bất biến, khách quan,
gọn
và phổ biến. Ðó là những đức tính gắn liền với nhau,
thiếu một là thiếu cả: Ví dụ, thiếu
bất biến thì rồi cũng
thiếu phổ -biến -tính, mà thiếu phổ - biến - tính là một sự khiếm
khuyết trầm trọng về
minh triết và triết lý.
Vậy mà các tiếng trên thế giới đều tượng thanh, mà
thanh là yếu tố biến đổi rất nhiều cả trong thời gian ( cứ trong vòng ba bốn
thế kỷ là biến đổi ) lẫn không gian : cùng là tiếng Anh, mà Mỷ nói khác
giọng Anh. Sự biến đổi âm kéo theo biến đổi chữ viết, càng ngày giọng đọc càng
xa chữ viết nên càng trở thành vô ích.
Ðang khi trẻ em Trung Hoa không mất thì giờ hơn để
nhận mặt chữ, bắt phải đặt nặng việc ám tả, mất ba bốn năm mà viết chưa xuôi mà
không được ơn ích khác như đọc các cổ thư. Và cứ thế ít thế kỷ phải đổi
chữ viết để theo kịp đà biến đổi của âm thanh ( évolution phonétique
). Càng đổi nhiều càng thêm rắc rối rồi dễ lẫn lộn, nên càng phải thêm xác
định bằng giống số, số của danh từ, ngôi vị của động từ . . . Những
cái vô ích đó ông Margoulies kể ra như sau:
a.- Rậm lời hơn chữ Việt Hoa ba bốn lần,
vì Việt Hoa không phải chú ý về cú pháp, nên chú tâm vào việc làm giàu từ, nên
từ giàu gấp năm.
Thí dụ nói vác thì Pháp nói mang trên vai, còn gánh
thí lại nói mang trên vai bằng một đoạn tre hai đầu có treo thúng.
b.- Cùng với lối ấn loát gọn, một quyển
sách Tàu nhỏ hơn được 10 lần, nên một sách Tàu lớn thì bằng cả một tủ sách Tây.
c.- Sự đọc của người trí thức trung bình
Tây phương ít hơn nhiều và nhất là xoay quanh toàn tác giả mới, bỏ mất quá
nhiều những tácgiả sâu xa hơn . Ðiều trầm trọng hơn cả cho các tiếng kiểu
Tây là nay không còn văn tự ( langue écrite ) nên còn gì liên kết với xưa nữ,
thành ra sự tan rã càng đi mạnh. Ở Trung cổ có văn tự La tinh tuy không
tượng ý, nhưng còn là chữ trừu tượng gửi cho mắt, nay La tinh mất thì không cón
lối giải quyết ( xem Margoulies p . 254 ), về vấn đề thế giới ngữ gặp quá
nhiều khó khăn. Nhưng sự bất lợi không chỉ có thế, mà còn trầm trọng hơn nhiều,
đó là dẫn đến sự thất bại của triết học.
Theo ông Margoulies đó là do ngôn ngữ văn tự bị chi
phối hay điều kiện hoá , nên mất hẳn phổ - biến – tính. Thí dụ cũng là từ tôi (
I )nhưng tiếng Mỹ phải mặc một hình thức nhất định, nếu là chủ từ thì I ,
nếu là túc tứ thi Me, nếu là số nhiều thì We, Us . . . , chữ nào cũng bị
đặc thù hoá, nghĩa là mất tình chất bất dịch và phổ biến .
Trái lại chữ Nho vì là tượng ý, nên Tàu, Nhật, Việt
đọc khác nhau mà hiểu như nhau y như đối với thế giiới viết số 5 ai cũng hiểu,
mặc dầu có trăm ngàn lối đọc . Vậy tất cả chữ Nho là tượng ý cả, đang khi Tây
Âu chỉ có được 10 con số là tượng ý, ngoại giả toàn là tượng thanh nên đều bị
điều kiện hoá, và thế là vô tình dẫn đến việc suy tưởng hỏng, bởi suy tư chân
thực thì phải đạt được cái gì phổ biến. Ðã có nhiều người nhận ra, đã cố
công phát triển mạnh toán học, vì toán suy luận bằng những ký hiệu không bị tư
riêng hóa, bao giờ 3 cũng là 3, nên sẽ giúp đạt phổ - biến – tính, là cái không
thể tìm được trong ngôn ngữ, nhưng vì toán học không liên hệ được với cụ thể
nên không giúp triết đạt được mục tiêu . . . Ngược lại vì chữ Nho
tượng ý không hề có thay đổi do cú pháp hay âm thanh, nên đã trở thành thứ văn
tự ( langue écrite ) với danh từ bất biến và cú pháp cực đơn giản, vì căn cứ
trên ngữ vị và một số nhỏ hư tự để xác định cú pháp : tất cả đều bất biến nên
cũng chở theo những nguyên lý phổ biến thực sự như âm dương, tam tài, ngũ hành
. . . Chúng ta cần đào sâu thêm để tìm hiểu tại sao chữ tượng ý lại có khả
năng như vậy ? Trong khi tìm chúng ta sẽ nhận thấy có hai tầng ý mà phải
đặt tầng ý sâu mới bền vững, còn ý tầng ngoài như toán học cũng như dùng ký
hiệu tượng ý, nhưng chỉ gây nên được sự đồng nhất toán học thuộc lý trí không
đủ sức gây nên thống nhất tâm tình. Vì con người phức tạp, cần phải có ý
sâu đầy tính chất phổ biến. Thế mà để nói cụ thể thì phổ- biến –tính chính là
hợp hết với mọi người trong mọi không thời gian.
Ðể được như vậy phải là một thứ ý căn cứ trên con
người toàn diện. Ðiều đó có nhiều nhất nơi Việt Nho Việt Nho, nền triết xây
trên nhân chủ tính nên phụng sự con người, hết mọi người. Vì nó đã tạo được
những thành tích mà không một nền văn hoá nào làm nổi, tức về văn hoá thì thống
nhất chữ viết, về đàng xã hội thì là kinh tế bình sản, khai trí bình đẳng . . .
Ngoài ra còn nhiều cái lợi khác, trước hết là nó liên
hệ với hoạ, nên viết cũng là vẽ, nhưng vì vẽ ý, nên lại liên hệ với thuyết
giảng, tuy không đánh mạnh vào tai, nhưng lại dai dằng thuyếtt phục bằng nằm
dài lại đó trên tường, trên cột, trên bình sứ . . .
Cũng như liên hệ với nhạc,vì là chữ đa thinh, nên bài
thơ viết trên tranh cũng chơi vai trò như bản nhạc, một thứ tĩnh
nhạc. Chính vì tính chất đa năng trên, nên chữ Nho toả ra một sức chinh
phục huyền bí như có ma lực, ví nó tham dự vào cả hội hoạ, cả biện thuyết cả âm
nhạc và nhất là triết lý, nên rất xứng là linh tự, linh ngữ, với nghĩa chư linh
là phổ biến, là tác động với toàn thể các cơ năng. Ðiều này còn được biểu
lộ ngay trong lối viết đặc biệt của chữ Nho bao gồm cả ngang dọc, tả hữu. Trong
nhân loại chỉ có lối viết hàng ngang hầu hết từ tả qua hữu, hoặc tự hữu qua tả
như Séurite. Riêng có Nho thì kiêm cả hai: từng chữ thì từ tả qua hữu, từng
dòng thì từ hữu qua tả. Nếu nói Việt tộc có phần đóng góp nào vào đây thì rõ
rệt là lối: “ Tả nhậm ” này.
Người Tàu cũng quý trọng bên Chiêu ( tả ) lắm, nhưng
là thâu hoá về sau kiểu mái nhà cong, chứ còn ban đầu đời Thương, Chu, Tần đều
thờ bên mục. Nhưng dầu vấn đề nguồn gốc có sao đi nữa, thì tả nhậm vẫn được kể
là nét đặc thù của Viêm Việt. Và nếu viết tự hữu sang tả nếu không là con dấu
của Lạc Việt thí ít nhất cũng là con dấu của của Liên bang Việt Nho. Vì thế,
nói Nho là của riêng Tàu đúng có ngoài mặt, còn sai bề trong, mà cái trong lại
mạnh kiểu ngấm ngầm, nên gây ảnh hưởng vào lối viết từng chữ không còn hẳn là
hàng ngang và từ tả qua hữu, nhưng toàn diện ( en surface ) theo lối nhận xét
của ông margoulies. Và như thế nói lên rõ rệt phần đóng góp của Viêm Việt vào
sự thành lập chữ Nho.” ( Nguồn gốc văn hoá Việt Nam : Kim Ðịnh )
( Cảm nghĩ về chữ Nho
của Bá tước Keyserling )
“ Chữ tượng ý đẹp tạo cho người học óc thẩm mỹ, dù
người đó không để ý đến , vì người viết chữ xấu bị xem như ít học. Thứ đến
cần phân biệt những nét chấm nét phẩy nhỏ tí luyện cho mắt cái nhìn được sâu
sắc. Hậu quả của lối chữ tượng ý này là luyện tập cho người Tàu có được cảm
quan về hình thái cực kỳ phát triển, khiến họ không thể sản xuất cái gì
xấu. Tôi còn thán phục trình độ trí thức của họ. Vì với chữ Nho người ta
chỉ nói bằng biểu tượng, nên không thể đọc mà không suy nghĩ, nhờ đó họ có tài
điều hợp.
Thứ đến là chữ tượng ý nói lên được nhiều tư tưởng hơn
hẳn chữ tượng thanh. Chỉ có những người không hề nghĩ ra được một tư tưởng
thâm sâu mới cả gan cho rằng có thể nói ra hết những điều mình nghĩ. Vì đó
là một phép lạ không một ngôn ngữ nào có thể làm được hết, bởi mỗi ngôn ngữ hơn
thế nữa mỗi thời đại đều có những giới hạn của mình mà không một thiên tài nào
vượt qua nổi, cũng không mong gì sáng tạo được một ngôn ngữ có khả năng đó, vì
hướng tiến hoá là đi tới minh – nhiên –hoá tức là đi đến sự nghèo –nàn –hoá
ngôn ngữ.
Tiếng Pháp không thể nói lên được nhiều bằng tiếng
Ðức, tiếng Anh hiện nay nói lên được ít hơn tiếng Anh thời đại
Elisabeth. Ðây là mới xét về những cái có thể giải nghĩa, huống hồ những
cái vượt mọi khả năng bày tỏ, nhưng lại rất thật, như những thực thể thuộc siêu
hình, tôn giáo. Những cái đó không thể bày tỏ trong ngôn ngữ ta, nhưng có thể với
chữ Nho: chỉ cần đặt biểu tượng này bên biểu tượng kia là chúng bao trùm và
định tính được cái vô biên, y như một góc mở định tính được không gian vô tế
vậy.
Người có học xem những chữ ấy biết được ngay người ta
định nói gì, mà nếu chưa biết trước, thì sẽ được học biết nhiều hơn so với sự
giải nghĩa dài giòng. Thí dụ Toàn thể Nho giáo có thể biểu thị trong 3 chữ: Chí
Trung Hoà.
Chí biểu thị sự tập trung
Trung biểu thị trung
điểm ( nội ).
Hoà nói lên sự hoà hợp
với bên ngoài ( ngoại )
Chỉ ba chữ đó không những
nói lên hết những gì đã viết trong Tứ Thư, mà còn cả những điều hàm ngụ trong
đó, mà chính ngay Khổng Tử cũng không biết.
À ! Nếu mà tôi viết
được chữ Nho, tôi sẽ vui lòng hy sinh mọi lối phát biểu khác . Vì khi mọi lời
nói đã vắng lặng rồi thì những tâm hồn tĩnh mịch vẫn nhìn được chân lý trước
mắt qua chữ Nho. Ðành rằng đó không phải là lối phát biểu khách quan, mà
chì là gợi ý, nên người đọc phải có cảm tình y như đối với lối nói bóng gió, vì
thế có những bất tiện trong nhiều trường hợp cần xác định chẳng hạn về áp phe,
về khoa học hay cả triết học nữa.
Về phương diện này
những thi sĩ hay văn hào muốn nói kiểu gợi ý thua xa những tác giả ưa nói kiểu
minh nhiên: chẳng hạn như Mallarmé kém Beaudelaire. Thế nhưng đem lời trách móc
bóng gió kiểu đàn bà và Mallarmé mà gán cho chữ Nho là lầm,vì nó là phương tiện
biểu lộ khác hẳn với ngôn ngữ và văn tự của ta nên so với những công thức toán
thì hơn, và phải là người ngây thơ lắm mới dám chê toán không thể định nghiã
được thực thể mà nó chỉ nói lên luật tắc, vì thực ra nó bao hàm nhiều hơn cũng
như xác thực hơn bất cứ ngôn ngữ nào. Vậy mà đó cũng là tính chất của chữ
Nho, nên về phương diện chữ Nho không kém mà còn hơn hẳn chữ Tây, chính vì nó
giống toán học ở khả năng biểu lộ trực tiếp những liên hệ mà không một ngôn ngữ
nào đạt nổi. Vì thế mà mọi tư tưởng của hiền triết đều có vẻ nghịch lý.
Cái đó là điều dĩ nhiên, vì bất cừ chân lý nào cũng bắt buộc phải mang vẻ
nghịch lý đối với người không biết, nhất là những chân lý sâu xa thì chỉ nổi
bật lên được khi đặt bên cạnh một nghịch điểm. Nhưng tính chất nghịch lý trong
Nho giáo đặc biệt ở chỗ mang sắc thái hí hước; tôi chưa thấy châm ngôn nào của
Nho mà không làm tôi cười thoả thích khi trong mình mạnh khỏe, nếu phải tìm ra
nguyên uỷ của sự việc thì vì tôi đã tìm thấy trong những châm ngôn đó hương vị
của cuộc sống mạnh mẽ hoà hợp với vũ trụ. Hí hước là một cái gì rất sâu xa. Và
chỉ có những người có thiện tâm thanh thản, có khả năng cảm nghiệm sâu xa đến
độ có thể biểu lộ ra một sự đối nghịch, mới có được hí hước. L‘humuor est
chose profonde: a de l’humuor celui qui sait exprimer un con
traste profondément senti du point de vue d‘un esprit bienveillant et serein .
( 1 )
( 1 ) : Câu này vì tác
giả nói một cách ngoắt nghéo nên có phần khó hiểu, và nay căn tính của hí hước
cũng còn có nhiều người chưa biết, như đã được chứng tỏ trong việc phiên âm chữ
l’humuor của Anh thành u mặc. Tiếng Pháp thì mượn luôn cả mà không dám dịch, vì
không tìm ra từ nào ám hợp mà nói lên tính chất của hí hước .
Có hí hước khi
nào nhìn thấy sự trái ngược trong một sự vụ nhưng lại đủ lòng khoan hoà để chấp
nhận sự vụ, mà còn biểu lộ được sự trái khoáy cách khoan hoà, nghĩa là không
làm thiệt đến ai “ Thiện hí hước hề.Bất vi ngược hề .” là vậy. Nói không
để châm chọc ai như kiểu châm biếm, mà chỉ để chơi ( hí ) và cười đùa ( hước ).
Vậy cũng có thể dịch là hài hước. Như vậy ta thấy muốn hí hước phải cần
đến hai đức tính là lòng khoan hoà và sự hiểu sâu. Có thể nói cả hai là
một, vì khi hiểu thục sâu thì nhận ra chõ hội thông của những câu trái ngược,
nên chấp nhận cách an nhiên. Bá tước Keyserling nhận xét rằng Nho giáo sản xuất
ra nhiều tay hí hước hơn hết các nền văn hoá , mà cao viễn đến độ có thể hí
hước cách lạnh lùng kiểu như Bồ Tùng Linh ( Journal C.P. 59 ).
Tôi cho rằng nhận xét
của keyserling rất đúng và thêm rằng sở dĩ được như vậy là vì Nho giáo đã tạo
đủ điều kiện thuận lợi: trước hết đối nghịch thì không đâu phổ quát bằng âm
dương, còn về sâu xa để có thể cùng chấp nhận thì cũng không thể hơn nguyên lý
“ âm trung hữu dương căn ”, tài năng cá nhân thì đâu cũng có, nhưng tạo điều
kiện thuận lợi cho hí hước nẩy nở trọn vẹn thì quả không đâu bằng Nho vậy . . .
. ( Kim Ðịnh: Tinh hoa ngũ điển )
( Lối chân minh triết: Tinh hoa ngũ điển. Kim Ðịnh )
Bà mẹ Việt Nam quả là
hình bóng của nền Minh triết Lạc Việt; người không đi trên những đại lộ huy
hoàng xán lạn, nhưng âm thầm lặng lẽ hoặc bước trên những lối mòn, những ngỏ
ngách quê hương tầm thường, xem ra chẳng mấy quan trọng. Cũng như thế nền minh
triết Việt Nho luôn đặt trên các nẻo đường mòn của dân tộc, thoạt xem tưởng
không có gỉ sâu sắc, có cũng được mà không cũng chẳng sao.
Vì thế từ lúc tiếp xúc
với nền văn minh xán lạn Thái Tây, nhiều người Á Ðông đã giả từ những nẻo đường
xưa cũ để tiến bước theo lối ngoại nhân. Nhưng rồi từ đó hết theo bên này
lại ngả sang bên kia với muôn vàn đổ vỡ, khiến phải dần dần hồi tâm mà nhìn lại
. . .
Ðể rồi mới nhận ra
những cái tầm thường bấy lâu không hẳn chỉ có thế, mà còn tiềm tàng một cái gì
phi thường. Và lại nhận ra không nơi đâu có được cái lối bình thường của chúng
ta, theo lời nhận xét của Bá tước Keyserling thì không một nơi nào trên thế
giới lại có sự lạ lùng này: nền minh triết ý thức lại lấy ngay đời sống bình
thường của dân gian làm mẫu mực. Không nơi nào lối sống thông thường theo bản
năng lại trở thành tiêu biểu hoà hợp cho một nền tư tưởng phong phú. Và cũng
không nơi nào đời sống lại được tổ chức threo đạo lý cao và sâu hơn, đến nỗi
ánh đạo soi thấu những hiện tượng mà bình thường ta không thấy có liên hệ chi
cả ( Journal II .87 ).Tại sao lại có việc kỳ lạ đó ?
Ðể trả lời chúng ta
thử xét xem ít nhiều sự kiện:
a.- Sự Thờ cúng
Tổ tiên
Ðây là một cổ tục của
dân gian nên đâu đâu cũng có, kể cả các xã hội La Hi. Tục đó thường mang ý
nghĩa bái vật: cúng giỗ ông bà để con cháu được giúp đỡ, làm ăn phát đạt .
. .
Một niềm tin như thế
bao hàm nhiều điều kiện: như tin sau khi chết linh hồn con người vẫn tồn tại,
và có khả năng bảo vệ hay sửa phạt con cháu . . . Ðó chỉ là những niềm tin
thiếu tính chất khách quan, vì thế đã bị trí thức khước từ.
Trái lại Việt Nho lại
dựa vào đó để biến thành Lễ Gia Tiên, với nhiều ý nghĩa như luân lý tỏ lòng
hiếu thảo với cha mẹ, hoặc với ý nghĩa tâm linh, trở lại hội thông với mọi Tổ,
tức với bản tính đồng nhiên của con người. ( Xem Căn Bản, chương II )
b.- Lễ Hội mùa Xuân
Trong Lễ hội nàu trai
gái họp nhau chia ra hai phe nam nữ cùng nhau hát đối, rồi những cặp nào thuận
nhau thì hợp thân ngay trong rừng hoặc trên mặt ruộng, nên cũng gọi là “ Dã
hợp ”, người Hán gọi là Bôn, thường thêm tiếng Dâm vào thanh Dâm Bôn, để
tỏ ý chê trách . . Nhưng trong tâm trạng của dân gian thì Dã Hợp chính là lễ
cầu cho được mùa màng, mà năm nào bỏ thì thất mùa. Ðó là niềm tin thuộc
tôn giáo phong nhiêu của khối dân Viêm Việt, nó phảng phất tính chất bái vật vu
nghiễn nên rất dễ bị trí thức coi khinh. Thế nhưng Việt Nho lại biến việc
đó thành tác phong giúp trời đất trong việc nuôi dưỡng dân: “ Tán thiên địa chi
hoá dục ”. Và cũng từ những mầm mống song đôi: như hai bè Nam Nữ, trước
Sông và Núi, giữa Ðất Trời . . . , mà thiết lập nên triết lý có lưỡng nghi
tính cực kỳ phong phú, với vô số cặp đôi đủ mọi phương diện:
Siêu hình như Âm
Dương.
Tôn giáo như tế Trời
tế Ðất ( Nam giao
).
Chính trị như Vua tôi,
cha con làng nước ( Xuân tế Ðế, Thu tế Thường )
Luân lý như: Nhân,
nghĩa, cương nhu, tình lý . . .
Tóm lại, trên nền tảng
hát đối của thôn dân, Việt Nho đã kiến tạo nên nét lưỡng nhất tính phổ quát, mà
chúng ta không thể nào gặp được ở nơi khác. Vì vậy, ngày nay triết
học các nơi chỉ có một chiều, thì ở đây lại lưỡng hành với ba chiều kích.
c.- Sau Âm Dương thì
đến Tam Tài
Ban đầu cũng chỉ là
một niềm tin của dân Viêm Việt, nói lên niềm tin con người đồng nhất thể với
thiên địa.Ðó là niềm tin có tính cách đồng cốt đi với cái nồi ba biên, với
những lời lên đồng kiểu
“ Phụ đồng phụ chổi,
thổi lổi mà lên, ba bề bốn bên, sôi lên cho chóng ”
Thế nhưng đã được văn
gia tiếp và rút ra từ đó thuyết nhân chủ: con người là một vua trong Tam Tài:
nếu Thiên là hoàng, Ðịa là hoàng thì Nhân cũng là hoàng. Rồi từ nhân chủ đi tới
nền dân chủ cách cụ thể, được biểu lộ bằng “ phần điền “, cũng như được
hưởng mọi “ tự do “ trong biên cương của đời sống công thể: nói vắn tắt là “
được ăn được nói “, tức là hai thứ quyền mà dân gian thuộc các nền văn hoá khác
xưa kia không được hưởng.
d.- Ngũ hành
Ngũ hành cũng là một
niềm tin có tính chất tai dị, đã đẻ ra những thuyết âm dương, ngũ hành phong
thuỷ . . . , nhưng rồi cũng được văn gia dựa vào đó để tạo thành thuyết
tiến hoá “ nhân giả ngũ hành chi đoan dã ”, đem lại cho triết lý nét động đích
rất đặc trưng không nơi nào cá cả, vì theo đó con người phải đóng góp phần quan
trọng vào mọi việc để đẩy đến chỗ chí cực, nên gọi là “ ngũ hoàng cực ”. Ngũ
chỉ cái gì toàn thể, tức là muôn việc đều quy vào một mối làm nên một mối cơ
thể, cũng gọi là “ thiên địa chi tâm ”. Còn hoàng là vua, tức không lệ thuộc
bên ngoài nữa nhưng tìm tiêu chuẩn hay sự trọn hảo ngay nơi lòng mình, khi được
như vậy thì gọi là đến “ chỗ chí cực ” . Nên có thể nói “ người không làm nữa,
mà là tế tự ”, ( il ne s’agit pas, il officie ) .
Cũng là ngũ hành, âm
dương nhưng nếu ở đợt bái vật thì con người sẽ làm một số điệu bộ cử chỉ tôn
giáo như khấn vái lâm râm, hương nhang nghi ngút, trái lại nơi người đạt tâm
thì là làm mọi việc tới chỗ chí cực “ Quân tử vô sở bất dụng kỳ cực ” tức phải
đưa vào việc cả Tình, ý, chí. Việc nào cũng làm đến chỗ chí cực, thế gọi
là “ ngũ hoàng cực ”, tức đừng tìm cao cả bên ngoài con người, nhưng ngay trong
con người, ngay trong những việc bổn phận hàng ngày. Ðó là đường đi tự ngũ hành
đến ngũ hoàng cực .
e.-Lễ
Ai cũng biết Lễ là nét
đặc trưng trùm lên Nho giáo. Vì Lễ bao gồm cả chính trị, kinh tế,cả vũ trụ
quan, nhân sinh quan . . . Thế mà xét tới nguyên uỷ thì chỉ là tục lệ
của dân gian, nên Lễ chỉ là Lệ được thăng hoa. Mà Lễ quan trọng nhất của dân
gian là chia cho đều mọi cái mà trong đó tài sản là nền tảng. Vậy Lễ cũng chính
là biết quân phân tài sản, quân phân tự do, kinh nể . . . nhưng làm cách trang
trọng để văn sức những mối giao liên của con người. Lâu ngày người ta quên nội
dung ban đầu của nó, để rồi phát triển quá mức phần nghi thức có lợi cho nhà
vua, cho người trên, đâm ra lưu trễ sính lễ, tức là cái bệnh rút ruột trát ra
ngoài.
g.- Thiên siêu ngôi
Ðây là một chuyển hoá khác, tế vi hơn, nên khó nhận ra, đó là Thượng đế
nhân hình lên đến Thiên siêu ngôi, để cuối cùng chỉ còn là lý phổ biến, cũng
gọi là Thiên lý: “ Thiên lý tại nhân tâm ”. Ngoài ra còn có một số chuyển
hoá khác nữa, nhưng ít quan trọng hơn.
Trở lên là một số chứng tích nói lên sự liên tục từ thôn dân , cũng gọi là
chất gia, hay nói chung là từ bái vật đi lên tâm linh, là lối đi vừa tiến bộ mà
đồng thời vẫn hợp với “ Trời ”, tức vẫn bảo trì được nền thống nhất giữa dân
gian và kẻ sĩ. Hai đàng chỉ khác nhau về bình diện tâm thức, nhưng vấn đề
thì vẫn là một, và đó là đường đi của Việt Nho: không đi trên những đại lộ huy hoàng
mà trong những nẻo đường mòn.
Bây giờ ta thử rút ra vài nhận xét, mà điều trước tiên là: Thoạt mới nhìn
người ta tưởng là chẳng có chi cao cả, mà chỉ là những gì sà sà mặt đất. Phải
nói ngay rằng nhận xét đó đúng, nhưng đấy mới chỉ là phần của chất gia, có thể
bao gồm cả bái vật, cả những kinh nghiệm thông thưởng gọi là thường nghiệm, và
đó là chỗ sách Trung Dung nói: “ Quân tử chi đạo phí nhi ẩn; phu phụ chi ngu
khả dĩ tri yên ” Nhưng không chỉ có thế, mà còn có hình nhi thượng của văn
gia, và lúc đó thì dù thánh nhân cũng không thể biết hết . Thí dụ: Lễ hội
trống quân thì với dân gian chỉ là việc “ vợ chồng”, nhưng với văn gia lại là “
Thiên Ðịa nam giao ”. Cả hai cùng một đường đi, nên nói: “ Quân tử chi đạo, tạo
đoan hồ phu phụ ”, cực kỳ chí giả, sát hồ thiên địa ”.Chính vì thế mà nét đặc
trưng của Nho là: Có mà như không . Thoạt trông như không có triết, nhưng
nhìn kỹ thì lại thấy không những có triết, mà còn là nền triết sâu rộng nhất,
ích lợi nhất trên đời, đến nỗi trở thành nền minh triết .
4.- Vấn đề nguồn gốc và Việt Nho
a.- Tình trạng vấn đề
Đọc
bản kê khai những đức tính trên nhiều độc giả chắc sẽ thắc mắc rằng đó là những
nét đặc thù nhưng là chung cho cả Tàu, chứ không riêng gì Việt Nam. Có thể thưa rằng đúng thế, về đàng hiện hữu, tuy nhiên về đàng cường độ vẫn
có chỗ khác, nó ở tại một hơn một kém. Sự hơn kém có thể xác định một phần khi
biết được bên nào nắm phần hơn thì phải kể là chủ chính, còn bên kém thì là
tham dự.
b.-
Nước nào là tác giả của Kinh Điển
Vậy
làm thế nào để xác định phần hơn hay kém đó. Ta đã biêết net đặc trưng lớn nhất
là Dân gian làm tác giả Kinh Điển, vậy thì trước hết tìm xem nước nào Tàu hay
Việt gần với tảc già Kinh Điển hơn ? Nói khác nườc nào đại diện Dân gin, còn
nươớ nào đại diện xâm lăng hoặc vương quyền nhiều hơn ? Câu
thưa sẽ hiện ra là nươớ đại diện dân gian nắm được nhiều hơn và chúng ta sẽ
thấy đó là nước Việt Nam. Nước Tàu đại diện nhiều
hơn cho các vương triều , kẻ kế vị của các đợt xâm lăng, vì
thế cũng đại biểu nhiều hơn cho phía nhà cai trị. Ngược
lại Việt Nam đại diêệ cho dân thổ trước, cho nền văn hoá nông nghiệp và luôn
luôn bị lùi bước trước nạn xâm lăng và sự lùi bưc đó không chi là khác hơn là «
cuộc Nam tiến « . Nhu vậy có nghĩa là nước ta đại diện cho dân gian nhiều
hơn. Tàu chỉ là nước đến sau học lại của ta và được chuyển hóa theo Nho một
phần, còn kém ta một phần và phần kém đó gọi là Hán học.
c.- Chủ
quyền Văn hoá thuộc Việt Nam
Thí dụ tinh thần Dân chủ được biểu lộ trong việc
cai trị xã thôn, thì ta thấy xã thôn Việt Nam giàu tính chất Dân chủ hơn xã
thôn Tàu, ở tàu xã trưởng thuộc một Dòng tộc, còn Việt Nam thì không vậy, có
nghĩa là Dân chủ hơn.
d.- Địa vị người Đàn bà Việt cao hơn
Thí dụ thứ hai là người Đàn bà Tàu ít Tự do hơn đàn bà
Việt, vậy có nghĩa là Việt Nam làm chủ Văn hoá.Vì Văn hóa Á Đông có tính chất
Nông nghiệp mà dấu hiệu là vai trò quan trọng của Phụ Nữ được kể như
sáng nghĩ ra việc gieo trồng đầu tiên ( Xem bài khi Văn minh Cồng gặp
Văn minh Lệnh trong Việt Lý ).Vậy trong nước nào Phụ Nữ nắm vai trò quan trọng
thì là dấu đã khởi sáng Văn Hóa. Thế mà ai xem Huyền sử của Tàu và Ta
cũng nhận ngay ra vai trò Phụ Nữ bên ta trổi vượt hơn qua các cặp Ngưu Lang
Chức Nữ, Âu Cơ Lạc Long quân, Mỵ Nương Sơn Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy. . .
Còn nhiếu thí dụ khác ( xin xem quyển Triết lý cái Đình ), nhưng chỉ
bấy nhiêu đã tạm đủ để nói lên giữa Văn Hóa Việt và Tàu có khác biệt nhiều đến
độ có sự chống đối thường xuyên và kéo dài bao ngàn năm. Đó là điều được
hầu hết các học giả công nhận.
5.- Chủ trương của phái Cựu và Tân
Sự dị biệt đó có lúc hiện lên rõ rệt, có lúc ẩn khúc cách tế vi và chỉ có
thể nhận ra được sau khi giải đáp khó khăn về nguồn gốc. Vì thế đó sẽ
là điều chúng ta phải đề cập bây giờ. Cần nói ngay rằng đây là vấn đề
làm bận tâm các nhá tân học hơn là các Cụ xưa. Các Cụ xưa vẫn chống đối Tàu,
vẫn cố duy trì nhiều nét đặc trưng nhưng hầu quan tâm đến vấn đề do lai của sự
dị biệt. Vấn đề này chỉ được đặt ra do phái Tân học đan khát vọng độc lập trước
là trong phương diện chính trị, sau là trong mọi phương diện khác, nhất là Văn hóa.
a.- Chủ
trương một nền Văn hóa độc lập lâu dài của phái Tân
Và hầu hết cho rằng Việt Nam đã có một nền Văn hóa độc lập lâu dài,
mà dấu vết còn ghi lại trong các đợt Văn minh Đông Sơn, Hòa Bình. . ., các ngôi
mộ cổ ở Lạch Trường từ Indonê, Mã Lai Á hay là Chàm. Đấy là một chủ
trương mới nhằm đem lại cho Văn hóa nước nhà một nền độc lập hòan
toàn không có liên hệ chi tới người Bắc phương ( Hoa Hán, Mông Cổ . .
. ).
b.- Chủ
trương Ta với Tàu cùng một gốc của phái Cựu
Lối giải đáp đó được hầu hết giới trí thức ủng hộ, để chống đối với niềm
tin các Cụ xưa cho Ta với Tàu cùng một gốc. Tôi gọi đó là niềm tin
vì dựa hầu hết trọn vẹn trên sử sách người Tàu, chưa biết phê phán cách khoa
học. Và không giải đáp thỏa đáng được nhiều khó khăn, thí dụ nếu do Tàu
tại sao lại chống Tàu, chống từ đợt cơ cấu chứ không phải có trên bình
diện chính trị.
Vì những lý do đó hầu hết những người Tân học theo chủ trương hàng Ngang đã
bàn ở trên , và ta có thể gọi là chủ trương mới ngược với chủ trương cũ của các
Cụ.
c.- Chủ
trương của Việt Nho
Đấy là hai chủ trương quen thuộc cho tới nay, nhưng cả hai đều vấp phải
những khó khăn không thể vượt qua được, nên chúng tôi phải đưa ra chủ
trương thứ ba gọi là Việt Nho.
d.- Những khó khăn hai phái Tân, Cựu chưa giải đáp ổn
thỏa
Trước hết chúng ta hãy phê phán lập trường của hai chủ trương Tân và
Cựu.
Phái Tân hay nhấn mạnh đến ảnh hưởng Chàm nhất là giai đoạn tạo lập nền Quốc học
nước ta xảy ra xung quanh thế kỷ 14 – 15. . . với Lê Thánh Tông làm then chốt.
Có người cho rằng đó là thời mà thái độ Tổ tiên ta đối với Tàu còn e dè, còn
đối với Chiêm Thành thì lao mình vào sự say mê chiêm ngưỡng, tôn kính, ngưỡng
mộ. Ta có thể nhận xét đó là nhữngcâu quả quyết thiếu nền móng , vì khi
nói đến ảnh hưởng Chàm tên Văn hóa Việt thì hầu hết chỉ đưa ra được dăm mười
danh từ, vài bà truyện tích, mấy điệu ca, múa, dăm ba câu hò, một hai kiểu tạc
tượng . . . , tức là vừa ít và nhất là loại trang trí bên ngoài, không có gì
gọi được đi sâu vào long trí. Lòng trí thì các thi ca tỏ vẻ coi khinh, gọi
vua người ta là “ thằng “, về vụ gà Huyền Trân công chúa cho vua Chàm thì : “
Tiếc cho cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mường nó leo “ .
Đến khi Huyền Trân thoát nạn về nhà thì nói : “ Châu đi thì châu lại
về. Ngơ ngẩn trông nhau mâấ đứa Hời” .Tuyệt nhiên chẳng có gì kính trọng
cả . Ta hãy nghe một câu của Chúa trùm Văn hóa đời Lê là Nguyễn Trãi, ông viết:
“ Phàm người trong nước không được học theo tiếng nói cùng phục sức các nước
Ngô, Chiêm, Lào, Tiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước (Ức trai
địa dư chí ). Câu trên coi thường 5 nước thì mạn Nam đã chiếm hết 4, còn
mạn Bắc có một mình nước Ngô. Trong thực tế , Ngô chỉ là một tỉnh trong 18
tỉnh Trung Hoa, nhưng người mình hay đồng hoá Ngô với Tàu, có lẽ bắt đầu từ
thời Chiến Quốc, Câu Tiễn vua nước Việt Chiết giang, nên khi di cư sang Việt
Nam thì đem theo thói quen coi Ngô là nước Tàu. Tôi chưa nghiên cứu
tỉ mỉ để lên sổ kỹ những yếu tố nào trong Văn hóa của ta là do ảnh hưởng Chàm,
nhưng cảm tưởng tự nhiên là ảnh hưởng đó rất bì phu yếu ớt. Có người kể
đến địa vị cao trọng của người đàn bà là do ảnh hưởng của Chàm thì là điều có
thể giải nghĩa theo Việt Nho còn đúng hơn. Bởi người đàn bà Chàm nằm trong ảnh
hưởng của tục thiêu sống người góa phụ, vì bị coi là của chồng. Vậy đâu có thể
ví được với con cháu của bà Âu Cơ, Mỵ Châu. . . Có người nại đến thói
quen của người Việt khi nói tục toàn lôi bộ phận sinh dục với các phó sản nhất
là của đàn bà vãi ra lung tung. Nhưng nếu gỉa nghĩa thói quen đó theo tâm lý
với mặc cảm sính trưng bày bằng ngôn từ ( exhitionisme verbal ) phát xuất do
các tục lệ chơi Xuân, hát trống Quân do Thanh giáo Bắc phương thì hay hơn nhiều
( Xem bài Kinh Thi trong Việt Lý ). Tóm lại ảnh hưởng chàm chỉ hời hợt bên
ngoài không đi sâu vào cơ cấu đến nơi nếu chỉ căn cứ trên mấy ngôi mộ cổ với ít
đồ cựu tân thạch thì tất cả văn chương nước ta đều tiếu nền móng. nếu quả
thật ảnh hưởng Chàm có bề thế thì chẳng để chon ho giáo chiếm địa vị độc tôn
suốt trong những thế kỷ vừa qua, khởi đầu ngay từ đời Lê, một đời có tiếng là
chống đốiTrung hoa, ấy thế ngay trong thời đó Nho đã chiếm địa vị chỉ huy
rồi. Ai cũng biết Lê Thánh Tôn là đỉnh cao chót vót nền văn hóa nước ta
vào thế kỷ 15, thế nhưng trong 10 bài Chiêu hồn tỏ rõ sự lựa chọn khi nói về sư
ni, và đạo sĩ Lê Thánh Tôn đều kết bằng câu hởi ôi! Và chỉ có đề cao Nho
sĩ. Xem thế đủ biết ảnh hưởng Chàm không có bao trong thực tế, nó chỉ
được phe tân học phóng đại ra để chống đỡ cho chủ trương “Độc lập “ mới
của mình mà thôi.
Tôi gạch duới chữ Độc lập ví nó thường được đưa ra làm chiêu bài nhưng bên
trong là cả một đường lối sửa soạn cho sự du nhập các ý hệ ngoại bang. Dù ý
thức hay không, nhưng đường lối đó là thế này: Muốn cho các tư trào ngoại lại
khỏi mang bộ mặt xa lạ của khách trú thì cần phải làm thế nào để ngôi nhà văn
hoá Việt Nam chỉ toàn có khách mà không có chủ, nên đứa nào bảo tao ngoại lại
thì nhiều thằng khac cũng ngoại lai. Muốn thế chỉ cần đề cao ảnh hưỏng
Chàm, Inđô đến độ như nền tảng Văn hoá Việt Nam. Một khi đã được như vậy thì
nhà Văn hoá Việt có chủ cũng như không, vì ai thấy chi đâu là nền ảnh hưởng
Chàm.Chỉ còn phiền có Nho giáo, phải làm thế nào để có thể hạ bệ nó
xuống. Dễ lắm chỉ cần nín thinh việc đã cầm trịch nền văn hóa nước này
nhiều ngàn năm, nhưng lại nhấn mạnh rất nhiều đến việc học mướn viết nhờ, cố
sao cho ngưòi Việt chán ghét thâm thù Nho giáo, y như chán ghét thâm thù với
Tàu. Cái đó tương đối dễ khi chưa ai phân biệt được thế nào là Hán Nho với
Nho nguyên thủy, thì chỉ việc lôi những nét của Hán Nho ra mà chửi bới, đem
những hủ tục những lạc hậu xưa đặt trên những tiến bộ huy hoàng của tây Âu thì
mười người như một đều đâm long oán giận Nho giáo. Nho giáo đã gây nên việc mất
nước và chậm tiến. Trí thức mới đã làm như thế và kết quả đã đạt 99%, ngôi
nhà văn hóa Việt đã trở thành vô chủ. Bây giờ chỉ còn việc đề cao việc
thâu hóa của tiền nhân, cho đó là nét Dân tộc tính cao cả nhất. .
. Trong thực chất có nghĩa là chúng ta hãy mở hai tay xoạc hai chân ra mà
đón nhận các tư trào từ bốn phương để mong theo kịp người trên con đường
tiến bộ văn minh .
Chủ trương trên còn được từng loạt những tiện nghi do khoa học năm này qua
năm khác tràn vào để gia tăng uy thế. Và vì vậy mà nó làm chủ được ngôi
nhà văn hoá nước ta từ liố 1930 tới nay, và hậu quả là đưa dần nước đến bi
trạng phân hoá trọn vẹn như chúng ta đang chứng kiến cũng như đồng thời là nạn
nhân và không hiểu tương lai ra sao , chỉ biết rằng nếu không cùng nhau làm một
cố gắng vượt bực thì tương lai đất nước thật là mù mịt.
Vì thế mà phải đặt lại vấn đề. Trước hết chúng ta cần phải hoan hô chủ
trương trên, vì đó là con đường rất tốt để phong phú hó nền văn hoá chúng
ta. Nhưng phải hỏi một điều là những tư trào đó có mang trong mình chất
Độc tôn chăng, bởi vì nếu có thì một khi ngồi chểm chệ và đã gây cơ sở đủ nó sẽ
bóp chết nền văn hoá chúng ta? Lúc đó khôg còn là phong phú hoá nữa, nhuưng là
tụ tiêu diệt, thí dụ triết thuyết CS đang bóp cho ngạt thở mọi vêế tích văn hoá
Việt. Do lẽ đó chúng ta cần e dè với những chủ trương cởi mở kiểu ăn hổ
lốn. Ăn hổ lốn thì có thể đi tả: Chết. Văn hoá không khác.
Nhưng nếu thế thì chúng ta phải chắp nhận chủ truơng các Cụ xưa kia chăng,
nghĩa là cho rằng mọi cái đều vay mượn của Tàu, đến nỗi sau mấy hồi chống đối
cho có lệ, cuối cùng lại phải trở về với ông thầy Tàu từ nàn xưa ? Xin gác
sang một bên vấn đề có phải các Cụ xưa chủ trương thế hay đó là chủ trương do
thế hệ mới gán cho người xưa, ở đây chúng ta chỉ cần cứu xét tới nền
móng của chủ trương. Theo đó thì Việt Nam là học tò của Tàu trong hết mọi
phương diện. Nhưng xin hỏi tại sao Trò lại giỏi hơn Thầy ở một số điểm, không phải
điểm thường, nhưng là điểm then chốt thuộc Cơ cấu, và hơn như vậy trải qua hiều
ngàn năm, có nghĩa là những nét đó thuộc Dân tộc chứ không phải
thuộc Cá nhân , như thí dụ đã nói trên về tinh thần Dân chủ Xã thôn và địa
vị Đàn bà hoặc như các Lề lối biểu lộ. Nho giáo lại đươợ duy trì nhiều nhất
trên đất Việt như các Lễ Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trùng Cửu. . ., sẽ bàn rộng
trong quyển “ Triết lý cái Đình”. Ở đây tôi chỉ có ý nói rằng những Lễ lạy
đó không phải là tiêu biểu riêng nhưng chính là dấu hiệu của những thực thể
sống động , tức là Cơ cấu uyên nguyên của Nho giáo là Âm Dương hay là Lưỡng
nhất tính. Vậy mà tính châấ Lưỡng nhất đó lại gắn liền với Hồn Nước như
tiếng Nói dân tộc ( Một Lên một Xuống đi đôi, như “ Chữ Tài chữ Mệnh
khéo là ghét nhau” . . . ), cũng như gắn liền với Danh hiệu của Nước
ta: Văn Lang, Xích Qủy, Nam Việt nhất là Giao Chỉ nói lên chỉ Trời giao
với chỉ Đất. Rồi xét đến Thể chế lớn như Làng Nước, Nhà Nước, Nhân Dân. .
. tất cả đều tỏ ra thấm nhuần Lưỡng nhất tính đươợ bàn tới trong Kinh Dịch.
Trở lên là những điểm lẽ ra phải trở thành cột trụ cho nèn Quốc học, nhưng
chẳng may vì một ngàn năm đô hộ, tiền nhân ta đã phải thâu nhận trọn vẹn Hán
học, vì Hán họclà một nền văn học, tức là cái học ôm Ngọn bỏ Gốc. Ngọn là
Văn học nó đòi hỏi phải ó sự giàu thịnh và những thời thái bình lâu năm mới xây
đắp được.Đó là những điều kiện thiếu cho nước Việt Nam quá bé nhỏ bên cạnh nước
láng giềng quá lớn mạnh, vì thêếkhi chỉ căn cứ trên có Văn học mà xét thì nhất
định Việt Nam là suy kém, là học trò của Tàu. Nhưng chúng ta nên nhận xét
là Văn học Tàu mới thiết lập từ đời Hán, tức là giai đoạn đã đi vào lịch sử
trọn vẹn và không còn vấn đề nguồn gốc nữa. Tàu hơn ta vì đông hơn, mạnh
hơn gấp cả trăm lần thì tất phải hơn ta về Văn học. Còn ta kém vì uôn luôn
bị đàn áp nên không có cơ hội phát triển một nền Văn học. Vậy thì chủ
trương cho rằng Việt Nam học mướn viết nhờ của Tàu là đuúg, nhưng chỉ ở Ngọn, ở
vòng Ngoài, mà sai ở Gốc ở vòng Trong.
Việt Nho
Muốn giải đáp được tất cả mọi khó khăn cần phải đưa ra
một chủ trương mới là Việt Nho: theo đó thì Nho giáo trước nhất do Tổ tiên Viêm
Việt sáng lập, rối người Tàu đến sau làm cho hoàn bị cũng như sa đoạ.
Đó là một chủ trương quá mới mẻ cũng như quá táo bạo nên không tránh
nổi những vấn nạn quan trọng.
Vấn nạn đầu tiên nêu ra là thế này: Nếu quả như thế, vậy tai sao cho tới
nay không ai biết đến, nhớ đến?Xin thưa rằng Chùa Đế Thiên Đế Thích mới xây vào
quảng thế kỷ 9 – 11, vậy mà đến đầu thế kỷ rồi không có một người Miên nào biết
tới, phải nhờ có sự tình cờ của một người ngòi máy bay xem thấy nhô lên khỏi
rừng một ngọn tháp rồi sau đó các nhà thám hiểm dày công tìm kiếm mới khám phá
ra . Mới có 6 – 7 trăm năm đã chôn vùi nổi một sự kiện khách quan , huống
chi đây là sự kiện Văn hoá đã xẩy ra có cả hàng 3 – 4 chục thế kỷ thì mong gì
mà còn có người nhớ. Tuy nhiên nếu chúng ta chịu lên máy bay nghĩa là
đặt cái nhìn bao quát trên toàn cảnh nền Văn hoá Nho giáo, thì chúng ta cũng sẽ
nhìn ra sự trổi lên của một số ngọn tháp, no sẽ là tiêu điểm cho cuộc khám
phá sau này: Những ngọn tháp đó là những điểm sau:
1.- Trước hết là sự tràn lấn của Văn
hoá Du mục trên Văn hoá Nông nghiệp xẩy ra trong khắp toàn
cầu. trong quyển Việt Lý chúng toi đã nhắc tới hai thì dụ Aryen và
Davidien và Helen Minoens.
2.-Thứ đến là cuộc chống đối liên
tiếp trước Văn hoá ngoại xâm của Việt tộc.
3.- Ba là số truyền kỳ thần thoại nói
lên cuộc giao tranh đó. . . như đã bàn trong Việt Lý Tố Nguyên ( sẽ
bàn thêm trong Bốn chặng Huyền sử nước Nam ).
Vấn nạn thứ hai có thể rằng đó chỉ là một giả thuyết hay nói tâng
bốc thì đó chỉ là một chủ trương. Vâng đây chỉ là một chủ trương hay
giả thuyết nhưng xin nhận xét rằng khi nói về nguồn gốc thì không có gì khác
hơn là một giả thuyết.
Nói rằng Hán học là của người Tàu mới là sự kiện, mới là lịch sử, còn nói
người Tàu sáng lập ra Nho giáo thì đã là một giả thuyết, vì nó nằm bên ngoài
lịch sử. Trong quảng khuyết sử đó có phải đó có phải chính người Tàu đã
sáng lập ra Nho giáo hay không thì
đó lại là vấn đề khác, và vấn đề mới này chỉ có tể giải đáp bằng giả thuyết,
tuy giả thuyết cho là các người Tàu có vẻ đắc ý hơn, nhưng xét thấu vào sẽ gặp
nhiêu khó khăn như vừa nói trên.
Còn giả thuyết Việt Nho tuy mới nhầm tưởng là yếu, nhưng khi vượt
thời gian trước thời Xuân Thu và Chiến Quốc thì thấy trả lời được nhiều khó
khăn mà hai chủ trương kia không giải đáp nỗi.
Thí dụ tại sao người Việt vốn chống Tàu mà
lại không bao giờ chống đối Nho giáo nói chung, thì chỉ có thể giải nghĩa bằng
giả thuyết này, là trong tiềm thứcTiên tổ vẫn nhớ đó là di sản tinh thần của
Dân tộc , nếu khlông thì đâu có chấp nhận sớm tế dễ thế?
Những điểm chống đối Hán Nho đã được ghi lại
trong Lĩnh Nam trích quái. Theo các tác giả xư như Vũ Quỳnh hay Kiều Phú bàn về
sách đó chứng tỏ hết mọi người Việt
đều
say sưa thích những câu truyện kể lại trong ấy, mà những câu truyện ấy tựu
trung là chống Tàu, nếu húng cũng chống Nho thì
dễ gì mà Nho giáo đã chinh phục nổi mảnh đất Việt kể
từ ngày những phần tử đề cao nến độc lập văn hoá hơn hết như Lê Thánh Tôn ,
Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên. . . Tấtcả các phần tử đó đã chấp nhận Nho giáo,
chính vì coi đó như cơ cấu Dân tộc, và chính cấu đã đem lại nét đặc trưng được
biểu lộ rất rõ ràng trong đời Lê : Yêu đời, dấn thân, tươi vui, dễ dãi, yêu
chuộng Hoà bình…
trên
tôi nói Nho giáo chung là có ý dành quyền một số chống đối riêng như sự khe
khắt trong vấn đề Nam Nữ, xem truyện Chiếc Giầy thơm, Dạ Nhất trạch. . .) đều
biểu lộ lối đối xử khoan hồng độ lượng. điều này giải nghĩa Việt Nho thì ổn
nhất.
Việc
lập ra chữ Nho không phải do chống chữ Nho và có lẽ đã khởi đầu từ Sĩ Nhiếp (
vì ở Quảng Tây đã có tục tự giống chữ Nôm của ta ). Nếu
giải nghĩa là sự chống đối nhà Tần vì bãi bỏ chữ các nước
Chư hầu để thống nhất văn tự thì có lý hơn bởi
lẽ rằng trong các đời sau khi văn Nôm đã thịnh đạt thì vẫn
đi đôi với chữ Nho như anh em một nhà, thời văn Nôm cực thịnh cũng là thời văn
Nho cực thịnh. Điều này không thể giải nghĩa được
do hai chủ trương Tân cũng như Cựu, vì theo Tân thì lẽ ra thịnh Nôm thì Nho hải
tiêu, còn theo Cổ thì viwệc chi phải lập ra chữ Nôm.
Cuối
cùng còn một điểm then chốt là cả hai chủ trương trên đều bất lực trước sự
thiết lập một nền Quốc học hoàn bị : Chủ trương Cựu thì bất lực tuy đã đạt đợt
văn học, nhưng chưa đạt đợt Triết, còn Chủ trương Tân thì đừng nói đến đạt cái
gì, hãy nói ngay một truyện duy trì tinh hoa của văn học cũng không xong. Bởi
vì khởi đầu văn học bằng tuyên dương Văn hoá Indonê Chàm, rồi chối bỏ Nho thì
làm thế nào giải nghĩa nổi một bản văn Việt nào cho ổn, thí
dụ một câu thơ « Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo « mà không thấu hiểu Nho giáo thì giải nghĩa sao nổi. Bất
quá biết được tang là dâu, bồng là cỏ, với lệ tục bắn 6 phát tên. . . , nhưng
còn cái triết nằm ngầm trong mấy chữ « Trang trắng vổ tay reo « thì sức mấy mà
tới. Mà đã không tới được cái triết lý của nó thì giờ Việt văn
chỉ là giờ tán dóc được che đậy bằng cái vỏ bác học bên ngoài về thời đại tác
giả, thân thế sự nghiệp . . . Khi đã bỏ mất then chốt nhất là phận sự tiêm sinh
lực vào cho mớ trí thức tản mác kia thì thân thế sự nghiệp của các tác giả hay
các điều bác vấn chỉ là những tài liệu chết càng chồng chất nhiều càng giết
chết lòng ham học, lòng thành khẩn say sưa. Thế cho nên đặt lại vụ án Văn hoá
không phải là chuyện lập dị, nhưng là việc cần thiết vừa để thỏa mãn óc khoa
học và nhất là vì có liên hệ quan trọng tới vận hệ nước nhà.
B.- ANH NGỮ
Trong thế giới khoa học ngày nay, Anh ngữ đã trở thành tiếng nói thông dụng
nhất thế giới, và nhất là về phương diện khoa học, tiếng Anh đã có một gia tài
từ ngữ đồ sộ rất chính xác. Không ngôn ngữ nào có thế qua mặt được về phương
diện đại diện cho Ðịa.
Excerpt from The
Tiding ( 06/04/04 ): In praise of English. by George Weigel, senior
fellow of the Ethnic & Public policy center in W.D.C.
“ It’s frequenly said
that English has become the world language, because of it plascity, its ability
to create and absorb new words as the technological revolution roars ahead at
full throttle. I’d argue that what give English its unique strength is not
so much its flexibility as its subtlety ”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)