Trong bài phỏng vấn gần đây của Thời báo
Kinh tế Sài Gòn, ông Trần Trọng Dương có nói:
Không chỉ vào lúc này mà việc học Hán Nôm luôn được
các học giả trong- ngoài nước đặt ra trong suốt thế kỷ vừa qua, từ Hoàng Xuân
Hãn, Phan Ngọc, cho đến Trần Ngọc Vương, Tomita Kenji,… Vì sao ư? Vì Hán Nôm là quá khứ của chúng ta, mà quá khứ
lại chính là động lực, là công cụ để chúng ta xây dựng tương lai. Có câu đừng
bắn súng vào quá khứ…!!!
Quá khứ của chúng ta nào vậy? (Quá khứ người Trung Quốc tự
viết cho ta hay quá khứ tự chúng ta nô dịch rồi nghĩ rằng nó thế). Tại sao
“đừng bắn súng vào quá khứ”? Ai nói câu đó và ai là người công nhận nó đúng?
Nếu nghĩ như Thạc sỹ này thì Einstein đã không nã vào Newton một
phát nào cả rồi cuối cùng Vật lý chúng ta chắc hoàn hảo theo Newton chăng? Là nhà
khoa học sao nói câu nghe nó cải lương thế? Đối với nhà khoa học thì không có
gì không thể nghi ngờ, không có gì là không thể suy trong xét ngoài, lật trái
lật phải. Lật đến khi tìm thấu được chân lý thì thôi. Bài toán số 10 của
Hilbert đã có một nghiên cứu sinh người Nga giải được bằng Toán sơ cấp với kết
quả là không có một algorith nào có thể chỉ ra một phương trình có nghiệm hay
không có nghiệm nguyên. (Tôi đã xem chứng minh và trớ trêu là nó đúng). Thế mà
đến thế kỷ 21 này có nhà khoa học người Việt Nam ta ở Úc, ông Kiều Tiến
Dũng đã chứng minh là có thể xây dựng một algorith như thế với điều kiện là có
máy tính lượng tử. Còn sự tồn tại máy tính lượng tử thì đã được chứng minh trên
lý thuyết. Tôi hoàn toàn thấy không có gì báng bổ hay là phạm thượng khi lật
ngược cấu trúc Hán-Nôm (tức Việt) chỉ chưa đến 1000 năm để chứng minh sự tồn
tại của cấu trúc Việt-Hán-Việt hơn 5000 năm và có thể lâu hơn nữa.
Có rất nhiều trí giả Việt Nam tự nô dịch như vậy. Tự
đồng hóa vì thấy văn hóa Hán quá đồ sộ với những tên tuổi vĩ đại. Và đôi khi tự
đồng hóa chỉ vì sính ngoại. Chuyện sính ngoại cũng là lẽ thường tình. Ở dân tộc
nào cũng có. Thời Pie Đại Đế dân Nga sính tiếng Đức, hàng Đức nên chi có hàng
loạt thành phố có chữ burg phía cuối. Nhưng cái sính ở đây mang nhiều tính thực
tế hơn. Vua Pie cho rằng ngôn ngữ Đức có quy củ chặt chẽ nên người Đức có một
kỷ luật lao động tốt. Sính ngoại theo kiểu Việt Nam thì tôi thấy đất nước này
không mất còn may. Đơn giản để lòe chữ, đơn giản đọc lên nghe nó hay. Tôi không
hề hiểu từ xiao mei (tiểu muội) đọc lên nó hay hơn từ em gái thế nào?!
Nhiều người còn dẫn chuyện hay chữ của họ bằng câu “Cha ông
ta có câu: Nôm na là cha mách qué.”. Văn hóa dân tộc phải ăn sâu vào tâm khảm
của đa số dân chúng, một phần nhỏ trí thức giỏi chữ Nho (hay Anh, Pháp) đâu có
tạo nên văn hóa dân tộc. Lại càng không phải do mấy trí giả sáng tạo ra câu
“Nôm na là cha mách qué” (Tôi đồ rằng câu này trước đây có nghĩa khác, nhưng
sau này do mức độ Hán hóa khá mạnh trong tầng lớp sĩ phu nước ta nên người ta
hiểu câu này thành nghĩa khác). Vậy những lời phát biểu của thứ cha ông hư báng
bổ văn hóa dân tộc thì có gì hay ho mà dẫn.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu và phục hồi lại lịch sử chân thật
của dân tộc chúng ta cần có những bước đi chững chạc và sâu sắc. Chúng ta cần
viết các công trình khoa học thật sự chứ không phải
những bài viết thừa tinh thần dân tộc mà thiếu tính sáng tạo và lập luận khoa
học. Những bài viết theo kiểu mì ăn liền lợi bất cập hại cho việc chứng minh
nên văn hóa rực rỡ của người Việt cổ. Khác với các ngành tự nhiên, trong lĩnh
vực khoa học xã hội thì các công trình khoa học ít khi được chờ đợi quốc tế
công nhận. Công trình khoa học chỉ có thể được
hay không được đăng ở báo chí chuyên ngành nào đó. Tờ báo càng
uy tín thì tiếng vang càng lớn. Lúc đó bạn có thể có cơ hội thuyết phục được
cộng đồng khoa học chấp nhận ý kiến và kết quả của mình. Có nhiều người sau đó
dẫn chứng trong công trình khoa học của họ kết quả của bạn thì kể như bạn thành
công một phần. Cái này được gọi là citation index-chỉ số dẫn. Citation index
của bài báo nói riêng và của tác giả nói chung càng lớn thì con đường khoa học
của ông càng có giá trị trên thế giới.
Công trình khoa học là một công trình trong đó phải có những
phát kiến mới, ý tưởng mới, nghiên cứu mớiđể
đưa kết những kết quả mới. Dĩ
nhiên, cũng có những phát kiến phát triển từ ý tưởng của người khác nhưng lúc
đó tòa báo sẽ xem những phát kiến đó của anh đã đủ tầm cho một bài báo khoa học
chưa. Vậy để làm sao đạt được các điều mới đó? Vâng, đó là công việc làm rất
nhọc nhằn và dày công chứ tuyệt không thể nào là những lướt web, copy and paste
và cải biên đơn giản được. Bởi vì sao? Vì đơn giản là để biết chắc những phát
kiến của mình là mới thì phải đọc xem đã có
ai từ trước đến nay trong chuyên ngành đó trên toàn thế giới đã đưa ra ý kiến
đó chưa. Người mới bước chân vào ngành phải có thầy hướng dẫn là
vì lẽ vậy. Ông thầy đã có nhiều bài báo chuyên ngành trên tạp chí tên tuổi thì
càng có uy tín. Một mặt ông ta có thể chỉ cho chúng ta thấy những công trình
của các nhóm nghiên cứu nào đã có nói đến vấn đề chúng ta quan tâm. Mặt khác,
khi đăng báo có đứng liên danh với ông ta thì tòa báo biết rằng những kết quả
trong bài báo gần như chắc chắn 100% là mới.
Tiếc rằng nhiều thầy ở Việt Nam do thiếu tài liệu nên
không thể biết hết các công trình trong ngành của mình!
Như bài viết này của tôi không thể gọi là một bài nghiên cứu
khoa học; bất quá nó được gọi là bài quảng bá khoa học mang tính trao đổi thông
tin và ý tưởng. Tuy có thể có phát kiến mới gì đó nhưng nó chưa đưa ra một kết
quả mới nào trong việc giải quyết một vấn đề gì đó. Sở dĩ tôi viết tràng giang
đại hải về vấn đề nghiên cứu khoa học là vì có rất nhiều “nhà” ở Việt Nam cứ
viết là nghiên cứu khoa học nhưng dường như không hiểu rõ lắm cách thức hoàn
thành một bài báo khoa học. Vậy chúng ta cần phải gạt bỏ nhiều huyễn tưởng là
mình có phát kiến và kết quả mới bởi vì đôi khi biết đâu những phát kiến đó đã
được viết ra cách đây 1 thế kỷ! Hiển nhiên, lúc đó công trình chúng ta nào có
giá trị gì.
Tôi đánh giá công trình về 12 chi cua học giả Nguyễn Cung
Thông rất hữu ích và là một công trình khoa học thật
sự. Quả tình, nói thì nghe hơi quái dị nhưng các phát hiện về ngôn ngữ của anh
Cung Thông lại khớp với những phát hiện Toán học (dĩ nhiên cho Kinh Dịch Nòng
Nọc) lần phát hiện ngôn ngữ khác của tôi. Những bài viết này của anh Nguyễn
Cung Thông đã đăng rồi thì chưa chắc sẽ được đăng ở tạp chí chuyên ngành trong
ngoài nước nào đó. Nhưng theo tôi, có thể dịch nó và cô đọng lại thành những
thesis để gửi đi các hội thảo chuyên ngành ở nước ngoài. Tôi đã từng được một
thầy ở Nga mời đi dự hội thảo như vậy, nhưng bận quá không viết thesis được.
Đọc bài anh Cung Thông phần ngôn thì thấy hấp dẫn, nhưng đến
phần ngữ lại hình như thiếu cái gốc. Đó là anh cũng phải chứng minh cho được
mấy thứ chữ kia cũng phát nguồn từ Việt Tộc. Nhưng với tư cách là người đã từng
nghiên cứu khoa học, tôi hoàn toàn hiểu anh ấy. Vì anh ấy chưa thể dám chắc về
nhiều điều, ví dụ như thời gian và không gian sinh tồn của khối cộng đồng xen
lẫn Hoa-Việt hoặc có thể người Hoa mượn ngôn nhưng nào chắc đã mượn ngữ. Trong
khi chúng ta chưa tìm thấy một dấu ấn nào của chữ viết Việt bây giờ thì sự cẩn
trọng đó là hợp lý.
Tôi cũng đánh giá rất cao các bài của anh Đỗ Thành. Tuy đó
là những bài ngắn nhưng chúng rất xứng đáng là các công trình khoa
học. Rất độc đáo, đặc biệt là cách phục hồi Duy Giáp Lệnh và Việt Nhân
Ca.
Và tôi hoàn toàn tán thành cách suy luận của hai anh Đỗ
Thành và Nguyễn Thiếu Dũng. Có ba ngờ vực duy lý của vấn đề này:
1 Sao
là “cả”? Dân tộc anh siêu việt ghê quá cà, cái gì cũng của anh cả?! Xin thưa,
văn hóa và ngôn ngữ phải xuất phát từ một gốc. Phải có cái rễ của nó. Và những
cái cành từ rễ ấy mà ra. Phải là “cả” mới hợp lý vì thứ nhất, sự tương thích
của các vấn đề văn hóa nói riêng và các thành tựu khoa học nói chung(tức là từ
một gốc tre thì cho ra 10 cành tre chứ không thể nào cho ra 5 cành tre và 5
cành mai được), thứ hai, ủa chứ cắc cớ chi mà dân Việt đã làm ra gốc tre rồi và
làm ra thêm 5 cành tre cho 5 hướng thôi còn các hướng khác hay chạm đến cuộc
sống lại dốt đặc cán mai để cho người Trung Quốc họ đến họ trang điểm mấy cành
mai vào kìa? Không, các vấn đề theo nhu cầu cuộc sống mà tự nó sinh ra và người
Việt đã giải quyết nó bắng một triết lý hay là bằng một khoa học (lúc bấy giờ)
nào đó cái mà tôi khẳng định là Kinh Dịch Nòng Nọc. Ví dụ, tôi đọc Hệ Từ Thượng
thấy một câu rất lạ là: “lưới đánh cá có tượng là quẻ Ly”. Nếu theo các vạch
rời và liền như Âm Dương bây giờ thì làm sao ra cho được quẻ Ly. Thật ra hình
của Âm Dương của Việt Tộc ngày xưa là một vòng tròn và hai vòng tròn. Ta thấy
lưới chài vì mềm nên ít khi đập vào mắt chúng ta một hình vuông hầu hết chúng
ta thấy lưới chài là những hình thoi liên tục. Và một hình thoi như thế chính
là quẻ Ly (đơn quái). Nếu quẻ Thuần Ly thành ra hai hình thoi thì càng giống về
hình tượng của lưới chài. Vạch Âm Dương theo tôi bây giờ cũng không phải của
người Trung Hoa; để viết nhanh gọn các quẻ người ta đã sáng tạo ra vạch Âm
Dương sau đó và người Trung Hoa vì không tường tận từ gốc rễ nên cứ nghĩ đó là
hai biểu thị Âm Dương từ nguyên thủy.
2 Các anh vơ
hết vào thế các anh phủ nhận những đóng góp của các học giả Trung Hoa suốt mấy
ngàn năm nay à? Ô hay, nào ai đã phủ nhận Hậu Thiên Bát Quái là của ông Chu Văn
Vương (có khi cũng chưa chắc của ông ta!). Nào ai phủ nhận Mai Hoa Dịch Số là
của ông Thiệu Khang Tiết? Nào ai phủ nhận Tử Vi hiện đại bây giờ là của Ngài
Trần Đoàn?...Vấn đề phải xem chúng phát triển từ căn nguyên nào. Nó xuất phát từ
một khẳng định, định lý, công thức đúng hay sai. Dĩ nhiên nguyên cứu những vấn
đề phức tạp có liên quan đến một loạt vấn đề lớn như Kinh Dịch thì không thể
nào rạch ròi trắng đen rõ ràng như các công thức Toán học trần trụi được. Vì
các kiến thức Dịch đúng và sai chen lẫn vào nhau. Những người phát triển kiến
thức Dịch từ những căn nguyên sai họ vẫn cứ dùng một số định đề của kiến thức
Dịch đúng và họ hoàn toàn không lý giải được vì sao nó thế. Điều đó là có thật
đến nay các bài toán Hệ Từ Thượng, Chu Dịch, Lục Thập Hoa Giáp vẫn chưa có ai
giải đáp thấu đáo. Đến đây sẽ có người lại hỏi: “Anh nói người ta sai thế sao
có bao nhiêu nhà Dịch học Trung Hoa lại có những đến quả đoán thần sầu?”. Thực
ra chả có gì khó hiểu cả, bởi vì việc bói toán nó liên quan đến cả lý thuyết và
thực hành mà vai trò chủ đạo vẫn là thực hành. Và từ dữ liệu A để suy ra kết
quả B người ta đã thông qua các chiêm nghiệm thực tế (hay là Thống Kê) từ hàng
ngàn năm nay. Và cái chính xác của bói toán còn phụ thuộc vào mức độ cảm ứng (hay khả năng nhận tín hiệu bằng ngoại cảm) khá chuẩn cua người xem.
3 Nếu anh
nói thế thì sao có những khái niệm rất cơ bản dân tộc nào cũng có thể sáng tạo
ra được từ nguyên lai sao người Hán lại dùng của người Việt chi kỳ vậy? Vi dụ
như tôi cho rằng hai từ Nam Nữ (Nản nụy) đi từ nõn nường. Vì hai từ này nói
chung là những khái niệm khá giản đơn thế sao người Hoa Hạ dùng của người Việt
chi vậy? Thật ra, đây là hội chứng “sính ngoại” nhất là khi cái ngoại đó là của
dân tộc phát triển hơn mình. Dân Hoa từ phía Bắc xuống gặp phải nền văn hóa rực
rỡ của Việt Tộc một mặt họ tăng cường quân sự để chiếm lấy các thành tựu khoa
học, mặt khác họ du nhập những sản phẩm văn hóa của dân tộc kia. Họ dần dần bỏ
đi một số từ ngữ trước đây đã từng có của dân tộc họ bởi vì đơn giản họ xem nó
có vẻ quê mùa và dùng từ ngữ của dân tộc có văn hóa phát triển hơn mình hoặc họ
bắt buộc phải dùng nó để nó hài hòa, đồng nhất với các giá trị văn hóa ngoại
lai du nhập khác (vi dụ chúng ta không thể dùng Mỹ người kế hoặc là Kế nhân
đẹp được mà phải dùng Mỹ nhân kế). Cũng giống như người Việt sau này lại
quay lại dùng từ Nam Nữ và ít dùng từ trai gái. (Nõn Nường trong ngôn ngữ Việt
cổ không có nghĩa là trai và gái).
(anviettoancau.net)