Nhà
Minh Đường hay là “nhà vũ trụ” vì có ba tầng chỉ Trời, Đất, Người. Đó không chi
khác hơn là Hồng phạm Cửu trù nhưng có 12 trù (vì 4 trù góc chia đôi thành 8)
để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu nào, ở
phòng nào… Vì thế gọi là Nguyệt lệnh. Đó là thể chế cho câu tu thân vi bản, tu
sao cho người hợp với Trời Đất thì đạt đạo. Đó gọi là Thuận Thiên. Sự thuận
thiên được biểu thị bằng màu, số, phương phải hợp nhau thí dụ mùa xuân thì
phương Đông, số 3, màu xanh; mùa hạ màu đỏ, thu trắng, đông đen…
Tuần
cuối mỗi mùa vua phải ở căn giữa để chỉ sự siêu thoát ra khỏi thời gian và
không gian, tức vào ở với hành ngũ vốn là “hành vô hành, địa vô địa”. Để làm
chi? Thưa để không làm chi cả. Có còn trong thời gian không gian đâu mà làm. Vậy
chỉ còn cách là “làm cái không làm” (vi vô vi). Trang Tử gọi đó là “Nhan
Hồi ngồi mà quên đi” để có được “trai tâm” hoặc “hư tâm”. Khi có hư tâm tức tâm
hồn trống trơn thì linh thiêng sẽ xuất hiện, để xảy ra hiện tượng “Giao Chỉ” là
chỉ Trời chỉ Đất giao thoa, làm nên cuộc Thái Hòa. Đó là đại đạo. Kinh Dịch nói
tóm lược trong câu “an thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái”. An thổ là vào ở trong
Hành Thổ ngồi quên mọi sự, nhờ đó sẽ biết bản tính con người, yêu cách trung
thực nên không làm hại người vì lòng yêu người của mình. Đó là ý câu “cố năng
ái”.
Xem
thế đủ biết thể chế Minh Đường chính là bản gốc của Nho hay nói tu thân vi bản
cũng thế, vì tu thân được cơ cấu hóa thành khung Minh Đường, nên Minh Đường
cũng là nền móng đường lối tu thân, nó là gốc. Vì vậy thời Nguyên Nho vua chỉ
trị vì mà không cai trị. Việc cai trị để cho các quan, còn vua dùng hết thời
giờ mà tu thân, mà ở trong Nhà Minh Đường. Đó gọi là vô vi nhi trị. Do đấy mà
vua xưa là nhà tư tế thượng phẩm trước hết, còn chức hoàng đế chỉ là thứ yếu,
tức cai trị coi như việc tuỳ ý có thể uỷ thác cho các quan, còn vua thì phải
lấy việc tu thân làm gốc.
Thiên
Vũ Cống không là lịch sử (không có trong sử ký) mà chỉ là bản tuồng lý tưởng
diễn tả cung cách hành đạo của người lý tưởng gọi bóng là Đại Vũ thực hiện quy
chế Nhà Minh Đường. Sau 4 năm tuần thú 4 phương thì về trung ương hội với các
thần ở Cối Kê. Sử ký của Tư Mã Thiên (S.M.T.3 p.413) nói vua tế phong trên núi
Thái Sơn, rồi vẽ tế Thiện trên núi Cối Kê (Kinh đô U Việt). Chữ Thiện cũng đọc
là Thiền và nghĩa tương đương với thiện nhượng là nhường lại hết: tức trút bỏ
tất cả để hội với các thần (Hội Kê) hầu đạt bản tính con người đại ngã tâm
linh. Đó quả là một lối thi vị hóa mênh mông thể chế Minh Đường vậy.
Hồng
Phạm còn là Khung cho nhiều thể chế khác như Hà Đồ, Lạc Thư đựơc dùng nhất là
cho việc suy tư triết lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động và phản động. Hành
động trong Hà Đồ là đi ra ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư là đi
vào hành ngũ: ngồi mà quên đi để mong tiếp cận với giếng thiêng đặng bồi bổ
tinh thần đã sa sút khi tiếp xúc với trần cấu. Ngoài Hà Đồ Lạc Thư còn có phép
tỉnh điền.
Tỉnh
điền chính là sự áp dụng Hồng phạm vào kinh tế. Người ta đã hiểu theo nghĩa
đen, nên nảy sinh ra rất nhiều tranh luận vô ích. Sự thực thì đó chỉ là lời dạy
về sự phải phân chia tài sản trong nước sao cho đạt được đồng đều theo lý tưởng
của Hồng phạm, nó bóng là chia mảnh đất ra 9 ô theo cái mẫu mực lý tưởng kia.
Vì thế tỉnh điền cũng chính là khung Hồng phạm vậy. Nó ở tại Trời Người Đất
cùng tham dự cả vòng trong chỉ bằng số 3, cả vòng ngoài chỉ bằng số 9. Nói bóng
là Nữ thần mộc (số 3) cũng có tên là Cửu Thiên Huyền Nữ (số 9). Thực ra đó là
đại diện cho nguyên lý mẹ luôn luôn có mặt trong Nguyên Nho tạo nên thế hòa
giữa âm dương, giữa nguyên lý cha và nguyên lý mẹ mà Kinh Dịch gọi là Càn Khôn.
Sự hòa hợp này được biểu thị bằng nhạc. Vì Nhạc là bà chúa sự hòa hợp. Nên nhận
xét chỉ có nước vua Thuấn mới có bộ nhạc. Xưa nay chưa đâu có bộ này.
Đó
là đại để tinh hoa của Nguyên Nho được đúc kết trong ba chữ Chí Trung Hòa mà
tôi đã thử trình bày qua 4 đợt từ, tượng, số, chế để cho dễ nhận ra nét đặc
trưng của Nho.
Từ
giúp cho có một ngôn ngữ sắc bén, thâu tóm cả hai đường nội ngoại.
Tượng
giúp cho Nho triết nhìn ra vị trí hòa giả của mình thật bao la.
Số
giúp cho đi sâu vào gốc rễ để thấy những chân lý ngược chiều làm nên nét đặc
trưng không ai có thể phủ nhận.
Chế
giúp cho thấy Nho vào đời một cách đặc sắc.
Câu
nói của hội nghị rằng “Khổng Tử có chân trên cả hai tàu” được biểu thị cách cụ
thể cùng tột bằng 4 bước trên. Nên hy vọng chúng giúp cho kỳ nhân của Nho xuất
hiện. Vì nếu kỳ nhân không ra thì đạo không căn cứ vào ai để hiện hành. “Cầu
phi kỳ nhân đạo bất hư hành” (Hệ từ hạ VIII 4). Xem đấy sẽ thấy Nguyên Nho khác
với Hán Nho ở chỗ nào. Xưa nay vẫn có lưu truyền cho rằng: Nho đến hết đời Khổng
Tử thì mất chính truyền. Từ đời Hán về sau Nho đã bị què quặt. Tuy lưu truyền
đó ai cũng công nhận ít ra cách mặc nhiên, nhưng chưa có một cuộc khai quật để
biết Nguyên Nho khác với Hán Nho ở chỗ nào. Tôi thiết tưởng Hán Nho đã nhãng bỏ
mất 3 bước sau là tượng, số, chế mà chỉ còn chuyên có bước đầu là từ. Điều ấy
truyền cho tới ngày nay lại càng gia tăng gấp bội, vì khi người Tàu gặp văn
minh Thái Tây thì lại càng chú ý đặc biệt đến từ.
Hãy
nhớ lại buổi đầu một số Nho gia đã bị thôi miên vì logic đến thế nào. Khởi đi
xa về trước chỉ cần nhắc đến Hồ Thích và Phùng Hữu Lan.
Hồ
Thích đã say xưa logic đến nỗi đã phá luân lý Nho để đề cao khoa lý luận của
Mặc Địch, của Huệ Thi, cuối cùng chẳng đi đến đâu.
Đến
Phùng Hữu Lan thì khá hơn nên ông đã được tặng danh hiệu triết gia. Nhưng danh
hiệu này mới do ông Demiéville tặng, chưa đựơc truy nhận rộng rãi. Tuy về
phương diện văn học hàn lâm thì họ Phùng có đủ, hơn nữa về đàng triết ông cũng
có bề thế vì đã nhìn ra tầm quan trọng của sự vô ích, vô dụng, tức đã nhìn ra sự
quan trọng của chữ Không. Nhưng rồi ông đã quá nghiêng về phía Hữu, phí Lý trí
đến nỗi dùng cả kinh tế để giải nghĩa thượng tầng văn hóa y như cộng sản, thành
thử cuối cùng ông đã giản lược Nho giáo vào 4 ý niệm trừu tượng là Lý, Khí,
Đạo, Đại Khối. Nho giáo là một đạo hành vi mà trình bày qua mấy ý niệm trừu
tượng đó tức là đã nhổ Nho ra khỏi đất tâm linh, chặt của Nho mất một chân, còn
đâu đủ hai chân tâm vật để mà lưỡng hành. Thành thử ông mới là một học giả,
kiêm triết học gia (ideologue) chưa là triết gia, ít ra chưa là triết gia của
Nho vốn có cả ngoại lẫn nội. Nội nằm trong tượng, số, chế, còn ngoại nằm trong
từ. Oâng chỉ chú ý có từ với ý tức là logic. Vì sức quyến dũ của logic quá mạnh
nên ta cần xét về điều đó tận nơi tổ của nó là triết học Tây Aâu.
Logic
với từ chỉ là một: logic là sự phát triển của từ, vì logic thành bởi ý niệm, mà
dấu hiệu của ý niệm là từ. Nên bám ý niệm cũng là bám từ: không đi xa hơn từ
bao lăm. Ta chỉ xem cái tam đoạn luận trong logic Aristotle ông tổ của lý luận
là thấy ngay: “mọi người phải chết. Socrate là người nên Socrate phải chết”. Đó
là câu mẫu của danh lý hình thức mà mấy năm đầu ban triết tôi đã tốn biết bao
thì giờ học để thi, đến cuối cùng gặp câu phê bình của Nietzsche: “Logic là một
lối lý luận ngu đần nhất”. Mà ngu thật. Nó có đưa lại yếu tố mới nào đâu, nó
chỉ đi từ sự đã biết nọ đến sự đã biết kia, chứ nó không bắc sang một miền
khác, sang cõi vô thí dụ để đặt liên hệ uyên nguyên hầu mở rộng chân trời ôm
luôn cả vô thể, vì thế tôi muôn nói tiếp theo Nietzsche rằng “đó là chứng bệnh
nan y, đến nỗi nhiều người đã biết nó là vô ích mà cũng không sao thoát được”.
Khỏi nói về Nietzsche mà hãy lấy ngay ví dụ về Hegel vì ông cực kỳ chống logic
mà ông cho là bất động, vì nó thành bởi những ý niệm đặc. Oâng đề nghị phương
pháp mới thay thế đó là biện chứng pháp là cái gì động, vì có hai mặt, thành
bởi những cái chống đối nhau, nên gọi là mâu thuẫn. “Mâu thuẫn là mẹ của tiến
bộ”, “chống đối là cha tiến hóa”. Mới đọc ông, ta tưởng ông là kiện tướng dẫn
ta leo trên cây cầu ngũ sắc để đi sang một thế giới huy hoàng, trung thực có
hai chiều. Nhưng cuối cùng ông đã làm ta thất vọng. Cái cầu ông bắc giống cầu
vòng, vươn lên thì có cao thật nhưng rồi lại cắm đầu xuống đất, thành ra một
thứ duy kiểu mới, nên có người muốn gọi ông là “đứa con truỵ thai của Á Châu”.
Con Á Châu vì có thể ông lấy hứng để lập ra biện chứng pháp ở cặp đôi Âm Dương
của Kinh Dịch. Nhứt là những đề luận lớn của ông như óc thượng sử, óc phiếm
thần, sự coi vũ trụ như một cơ thể (thay vì cơ khí) là những điều na ná với lập
trường Nho nên gọi là con Á Châu, nhưng là đứa con sinh sớm nên truỵ thai. Vì
ông mới đi hết được có vòng ngoài, gọi là vòng kháng, mà chưa đi tới vòng trong
hay vòng sinh nên cuối cùng triết thuyết của ông không thoát khỏi vòng tay của
logic tức cũng lại trở nên một duy “ism” như trước, duy tâm.
Karl
Marx chê ông là đi ngược: đầu ở dưới hai chân giơ lên trời nên đã chữa lại cho
biện chứng đi hai chân trên đất, thành ra duy vật biện chứng (Mao Trạch Đông đã
khai mạc cuộc cách mạng của ông bằng quyền “Mâu Thuẫn” là đi đúng với tinh thần
một chiều của Hegel và Marx. Đó là chiều kháng, thiếu vòng sinh). Chỉ nội một
tấm gương đó của Hegel đã đủ chứng tỏ duy lý (logicisme) là một chứng ung thư
chưa tìm ra thuốc chữa. Sau bao thất bại mà mãi đến tận nay logic vẫn còn được
dưỡng bồi nhiều kiểu khác nhau. Nhưng phát triển đến đâu mặc, triết vẫn tiến
tại chỗ. Logic không giúp cho triết có thêm chiều kích tâm linh để có được chân
trên cả hai tàu. Chính tổ logic mà còn vậy, phương chi mình học một thì trông
làm sao hơn đặng. Vậy phải trở về con đường hai chiều của Nguyên Nho. Hãy nhớ
chính vì chỗ hai chiều đó mà hội nghị Honolulu không chọn triết Tây vì ngầm
hiểu là nó thiếu hai chiều, nên phải chọn triết Nho, vì cho rằng Nho có hai
chiếu. Nhưng trớ trêu thay triết Nho đã được trình bày một chiều theo triết Tây
nghĩa là duy trí. Và đó là lý do tại sao Khổng Tử chưa thể ra cầm trịch là vì
ông vẫn còn què, cái Nho đựơc trình bày là cái Nho thọt, nó đi ngược với truyền
thống Nho vốn đặt lập đức trước hết, thứ đến là lập công, cuối cùng mới đến lập
ngôn, tức tu từ, tu lý bị kể vào hạng bét. Tôi thiết nghĩ cản trở lại con đường
cũ gồm cả bốn bứơc từ, tượng, số, chế thì Nho mới đủ hai chân. Có lẽ chỉ nên
đổi thứ tự và chỗ nhấn để hợp tinh thần ngày nay hơn. Thay vì từ, tượng, số,
chế, thì nay sẽ là dụng, từ, ý, cơ. Tức nhấn mạnh đến việc làm gọi là Dụng (đối
với thể là lý).
Từ
giữ y nguyên, còn ý thay cho tượng, tức biểu tượng phải bớt đi để nhường quyền
cho ý, cho logic, và đó là phần mà Nho phải học với triết Tây để biết phân tích
thấu đáo, luận lý rành mạch, hệ thống hóa chặt chẽ để hợp tâm trạng người mới.
Sau đó đến số nên đổi ra cơ để khai thác những thành tựu của cơ cấu luận. Đó
cũng là sự phục hoạt con đường Nho nguyên thuỷ, thứ Nho có dùng số, đồ biểu, biểu
tượng. Cho nên với phần này ta có thể đưa lại cho Nho những khía cạnh mới mẻ
hợp cảm quan thời nay. Người nay đã chán lối suy tưởng duy lý, trừu tượng, khô
khan, và đang mong muốn một thứ triết lý cụ thể. Với cơ cấu cùng các tuỳ phụ
như tiêu biểu, truyền kỳ, chúng ta có thể nếu không tạo dựng một nền triết mới
ít ra cũng nhìn Nho bằng một lối mới, một kiểu trình bày Nho một cách cụ thể,
có màu sắc, có truyện tích, điểm pha lịch sử cho bớt tính chất trừu tượng của
duy lý. Và trên hết là dụng.
Dụng
là làm, tôi muốn dùng chữ này thay cho chữ chế là có ý mở rộng chế hơn. Tôi
muốn dùng chữ này trước hết để chỉ tất cả mọi lời nói phải hướng vào hành động,
cần gạt bỏ những vấn đề quá hàn lâm, thuyết lý. Sau là muốn chỉ những hoạt động
nào nhằm tu thân. Vì nhiều thể chế cũ nay đã lỗi thời. Và vì lối tu thân xưa đã
thất nói vắn tắt là nhạc đã mất, nên không còn rõ người xưa tu cách nào. Ta có
thể thay vào bằng thi ca, nghệ thuật thì mới có phương tiện thanh lọc tâm tình
để cân đối với logic suông.
Ngoài
ra nên thêm một lối thiền nào mà ta ưng ý hơn hết. Vì thiền cụ thể hóa lối tu
trong nhà Minh Đường hơn cả. Thiền đi vào nội tâm để trai tâm y như Minh Đường
là để thực hiện lời Kinh Dịch “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động,
cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Dịch là không suy tư, không làm nữa, ngồi
bất động để rồi tự nhiên thấu suốt các lẽ đất trời”. Phai có thế thì Mạnh Tử
mới nói được câu “phản thân nhi thành lạc mạc đại yên”. Có như vậy mới đúng câu
mở đầu sách Luận Ngữ “vừa học vừa tập vui biết mấy” (câu 2), và câu sách Đại
học (câu 3) “Hữu phỉ quân tử như thiết như tha, như trác như ma”. Người quân tử
chú ý đến tu thân cách chăm chú như người thợ ngọc “như cắt, như dũa, như đục,
như mài”. Bỏ phần tu luyện thì làm sao có thể nói những câu như thế, làm sao có
thể nói vừa học vừa tập vui biết mấy. Cái ấy tôi gọi bằng tên bao quát là dụng.
Phải để Dụng trên đầu, trứơc cả từ, ý, cơ. Đó cũng là hợp câu châm ngôn “tiên
học lễ hậu học văn”. Văn là từ, ý, cơ đi sau, còn lễ là dụng, là tu luyện, là
tất cả những gì hiện thực phải để lên đầu, phải cho là quan trọng bậc nhất. Như
vậy mới có một cái gì thực nghiêm chỉnh đặng cân bằng với lý luận lý trí để
thiết lập lại con đường “lưỡng hành”.
Đó
là đại để nét đặc trưng của Nho giáo mà hội nghị Honolulu đã gọi là có chân trên cả hai tàu,
cả tàu vật chất lẫn tinh thần, cả dụng lẫn từ, ý, cơ. Sở dĩ hội nghị đã bầu
Khổng Tử lên cầm trịch mà ba mươi lăm năm nay chưa thấy ông xuất hiện, thì truy
căn ra ông còn cụt một chân: mới có đi chân từ, ý, chưa chắc đến chân cơ, dụng.
Mới có học giả để nghiên cứu, chưa có triết gia để suy tư, để đưa ra những tư
tưởng hướng dẫn. Thế giới tuy bao giờ cũng đựơc hướng dẫn do ý tưởng thực,
nhưng nó không chịu ăn đồ hộp là ý tưởng cũ, mà đòi những tư tưởng mới vọt lên,
còn nóng sốt. Đó là ý nghĩ của tôi về lý do sự chọn lựa của hội nghị Honolulu năm 1949, và tại
sao Nho giáo chưa nổi lên được.
Tôi
xin kết thúc bài nói bằng câu hỏi sau: có vẻ tư riêng hơi kỳ nhưng vì yêu cầu
thực tế nên cứ hỏi là liệu hội nghị này có chọn một triết gia nào, hoặc một
triết lý nào để dẫn đưa nhân loại trong giai đoạn đang tới chăng? Tôi không
biết rồi đây trong các cuộc thảo luận câu hỏi trên có được đặt ra chăng? Nếu
không tôi ước mong được mỗi quý vị ghi ý kiến mình vào mảnh giấy nhỏ và trao
cho tôi để tôi có bằng chứng mà đo mức độ tâm thức nhân loại hiện nay cũng như
dùng làm kỷ niệm quý báu về hội nghị này.
Bài đọc tại Đệ nhất
hội nghị toàn cầu về triết học Trung Hoa hội tại Đài Loan- Đại học Đông
Hải – August 1984 (The First World Conference in Chinese Philosophy – Taichung
Taiwan R.O.C)