Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt là
một hiệp định được ký ngày 6
tháng 3 năm 1946 giữa Pháp
và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiệp định này được xem là một
nước cờ chính trị của cả hai
bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng.
Nguyên nhân
Sau cuộc đảo chính của Nhật
ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực
dân Pháp mất quyền cai trị Liên
bang Đông Dương. Tuy nhiên,
sau khi Nhật đầu hàng khối
Đồng Minh, Việt Minh chớp thời
cơ giành chính quyền từ tay Đế
quốc Nhật Bản và Đế quốc Việt
Nam, nhanh chóng kiểm soát
đất nước, và thành lập chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vào ngày 2 tháng 9 năm
1945.
Theo thỏa thuận của các nước
Đồng Minh, quân đội Trung Hoa
Quốc dân đảng tiến vào miền
Bắc Việt Nam để làm nhiệm vụ
giải giáp quân Nhật. Ở miền
Nam Việt Nam, quân Anh tiến
vào với nhiệm vụ tương tự.
Tuy người Việt Nam đã tự
thành lập chính quyền và
tuyên bố độc lập, chính phủ
Pháp vẫn quyết tâm tái lập
quyền cai trị Đông Dương.
Rạng ngày 23 tháng 9 năm
1945, người Pháp, dưới sự giúp
đỡ của quân đội Anh, đã dùng
vũ lực buộc chính quyền người
Việt ở miền Nam phải giải tán,
giao lại chính quyền cho người
Pháp. Tuy nhiên, chính quyền
người Việt đã thực hiện cuộc
chiếntranh du kích để chống
lại.
Ở miền Bắc, quân đội Trung
Hoa Quốc dân đảng vẫn công
nhận chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa cho mưu đồ
chính trị của họ. Tuy nhiên,
người Pháp cũng đã thương
lượng với chính phủ Trung Hoa
Quốc dân đảng để có cớ đưa
quân đội xâm nhập Bắc Việt
Nam.
Ngày 28 tháng 2 năm 1946,
Hiệp ước Hoa–Pháp được ký
kết, với 2 điểm chính:
Pháp nhường cho chính phủ
Trung Hoa Quốc dân đảng
một số quyền lợi ở Trung
Quốc
Chính phủ Trung Hoa Quốc
dân đảng đồng ý cho Pháp
thay thế quân Trung Hoa
Quốc dân đảng tại miền Bắc
Việt Nam.
Về cơ bản, hiệp ước này cho
phép quân đội Pháp vào Bắc
Việt Nam thay thế cho quân
Trung Hoa Quốc dân đảng để
làm nhiệm vụ giải giáp quân
Nhật. Đổi lại, Pháp cũng đã trả
lại các tô giới của mình trên
đất Trung Quốc cho chính phủ
Trung Hoa Quốc dân đảng.
Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt
Trước sức ép của chính phủ
Trung Hoa Quốc dân đảng,
chính phủ Việt Nam buộc phải
công nhận việc quân Pháp vào
Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, họ
cũng cố lợi dụng cơ hội này để
ký với Pháp một hiệp định để
tranh thủ những điều kiện có
lợi.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp
định sơ bộ Pháp-Việt được ký
kết giữa Jean Sainteny, đại
diện chính phủ Cộng hòa Pháp,
và Hồ Chí Minh cùng Vũ Hồng
Khanh, đại diện chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội
dung của Hiệp định bao gồm
các điểm chính sau đây:
Chính phủ Pháp công nhận
nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là một quốc gia tự
do trong Liên bang Đông
Dương và trong khối Liên
hiệp Pháp, có chính phủ,
nghị viện, quân đội và tài
chính riêng
Chính phủ Việt Nam đồng ý
cho 15.000 quân Pháp vào
miền Bắcthay thế cho
200.000 quân Trung Hoa
Quốcdân đảng để làm
nhiệm vụ giải giáp quân
Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết
quân trong thời hạn 5 năm,
mỗi năm rút 3000 quân.
Pháp đồng ý thực hiện
trưng cầu dân ý tại Nam Bộ
về việc thống nhất với Việt
Nam Dânchủ Cộng hòa.
Hai bên thực hiện ngưng
bắn ngay tại Nam Bộ.
Về phía người Pháp, họ đã có
danh chính ngôn thuận đưa
quân đội xâm nhập Bắc Việt
Nam để chuẩn bị tái chiếm
Đông Dương như họ đã làm ở
Nam Việt Nam, đồng thời thoát
khỏi sự ngăn cản của các tướng
lĩnh Trung Hoa.
Về phía người Việt, loại trừ
nguy cơ của 20 vạn quân Trung
Hoa chiếm đóng, tránh được
thế "lưỡng đầu thọ địch" tập
trung đề đối phó với người
Pháp. Đồng thời, tranh thủ
được thời gian hòa hoãn quý
báu để củng cố, xây dựng lực
lượng bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp tái
chiếm Đông Dương.
Tuy nhiên, hiệp định đã bị Cao
ủy Pháp, Georges Thierry
d'Argenlieu, làm mất giá trị khi
ông tuyên bố sự ra đời của
Nam Kỳ quốc tại Sài Gòn vào
ngày 2 tháng 6 cùng năm, ngay
sau khi Hồ Chủ tịch cùng đoàn
đại biểu chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa lên đường
sang Paris để đàm phán về cách
thi hành hiệp định. Với một
nước Nam Kỳ quốc "độc lập",
cuộc trưng cầu dân ý tại miền
Nam đã không còn cần thiết.