17 thg 4, 2011

Học (2)

» Xã hội Cả nước hiện nay có gần 22 triệu người đi học (kể cả lớp ngắn hạn, giáo dục thường xuyên). Trước năm 1945, hệ thống giáo dục phổ thông là 13 năm (bậc tiểu học 6 năm, trung học 4 năm; trung học phổ thông bậc một là hai năm và bậc hai là ba năm); hệ cao đẳng ba năm và hệ ĐH4 6 năm. Thời kỳ đó, số lượng và quy mô trường lớp nhỏ. Trung bình một huyện có 20 xã chia làm3 4 tổng, mỗi tổng có một trường tiểu học bậc một gồm ba lớp, 25 đến 30 học sinh mỗi lớp (để thi lấy bằng yếu lược), sau đó ba năm nữa thi lấy bằng tiểu học. Tại các làng cũng có những ông giáo tốt nghiệp bằng sơ cấp yếu lược tổ chức lớp dạy cho trẻ con chữ a, b, c, nhân chi sơ tính bản thiện. Ngày đó, trong tổng của tôi có ngôi trường cấp một Thuận An. Trường là ngôi nhà cấp bốn có ba phòng học và một phòng hiệu trưởng, bàn của học sinh được kê thành hai dãy, mỗi bàn bốn chỗ ngồi. Điều ấn tượng nhất với tôi đó là phía dưới các lớp học thường có một cái giá kê phía dưới lớp dùng để treo những đồ nông cụ nhỏ trong gia đình (cối xay lúa, xe quay nước, thúng, mủng, dần, sàng, bát, đũa, chén…) được cha mẹ và học trò tự làm để phục vụ cho việc thực hành ở lớp. Ngày đó, trường tổ chức học hai buổi mỗi ngày, mỗi học trò đều mang cơm theo để buổi trưa ăn và nghỉ ngay tại lớp học. Khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến và trong kháng chiến, hệ thống giáo dục của nước ta vẫn duy trì như trước. Đến năm 1950, Chính phủ có cuộc cải cách giáo dục, hệ tiểu học giảm còn bốn năm, trung học ba năm và THPT hai năm. Đến năm 1956, hệ THPT tăng thêm một năm thành ba năm (lớp 8, 9, 10) và kéo dài đến khi giải phóng miền Nam. Sau giải phóng miền Nam, hệ thống giáo dục của hai miền Nam - Bắc hợp nhất gồm cấp một (5 năm), cấp hai (bốn năm), cấp ba (ba năm). Ông Nguyễn Hữu Danh, Phó chủ tịch Hội Cựu giáo chức TP HCM: Chọn “ngoại ngữ tiếng Việt” để tiếngdân tộc không bị mai một. Tôi còn nhớ, trước khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, tôi được tham gia đội Thiếu niên tiền phong. Ngoài giờ học tôi còn tham gia các cuộc mít tinh.… Khi ở nhà, lứa học sinh chúng tôi thường tụ tập tại các khu phố, để quan sát việc vận chuyển vũ khí của giặc (chuyển vào nhà dân Pháp). Chúng tôi có thể làm tốt công việc này vì họ không chú ý tới trẻ con. Thời đó, chúng tôi phải học tất cả chương trình học bằng tiếng Pháp. Mỗi học sinh được chọn hai loại sinh ngữ khác ngoài tiếng Pháp để học. Tất cả học sinh Việt Nam ở Sài Gòn khi đó đều chọn ngoại ngữ 1 là tiếng Việt, ngoại ngữ 2 thường là tiếng Anh để học. Làm như vậy mới có thể duy trì vốn tiếng Việt của dân tộc, không để ngôn ngữ của mình bị mai một.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét