20 thg 3, 2011

VIỆT-HÁN-VIỆT 7000 - 5000 NĂM HAY HÁN-VIỆT 1000 NĂM Khổng La Ái (1)


Trong bài phỏng vấn gần đây của Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ông Trần Trọng Dương có nói:

Không chỉ vào lúc này mà việc học Hán Nôm luôn được các học giả trong- ngoài nước đặt ra trong suốt thế kỷ vừa qua, từ Hoàng Xuân Hãn, Phan Ngọc, cho đến Trần Ngọc Vương, Tomita Kenji,… Vì sao ư? Vì Hán Nôm là quá khứ của chúng ta, mà quá khứ lại chính là động lực, là công cụ để chúng ta xây dựng tương lai. Có câu đừng bắn súng vào quá khứ…!!!

Quá khứ của chúng ta nào vậy? (Quá khứ người Trung Quốc tự viết cho ta hay quá khứ tự chúng ta nô dịch rồi nghĩ rằng nó thế). Tại sao “đừng bắn súng vào quá khứ”? Ai nói câu đó và ai là người công nhận nó đúng? Nếu nghĩ như Thạc sỹ này thì Einstein đã không nã vào Newton một phát nào cả rồi cuối cùng Vật lý chúng ta chắc hoàn hảo theo Newton chăng? Là nhà khoa học sao nói câu nghe nó cải lương thế? Đối với nhà khoa học thì không có gì không thể nghi ngờ, không có gì là không thể suy trong xét ngoài, lật trái lật phải. Lật đến khi tìm thấu được chân lý thì thôi. Bài toán số 10 của Hilbert đã có một nghiên cứu sinh người Nga giải được bằng Toán sơ cấp với kết quả là không có một algorith nào có thể chỉ ra một phương trình có nghiệm hay không có nghiệm nguyên. (Tôi đã xem chứng minh và trớ trêu là nó đúng). Thế mà đến thế kỷ 21 này có nhà khoa học người Việt Nam ta ở Úc, ông Kiều Tiến Dũng đã chứng minh là có thể xây dựng một algorith như thế với điều kiện là có máy tính lượng tử. Còn sự tồn tại máy tính lượng tử thì đã được chứng minh trên lý thuyết. Tôi hoàn toàn thấy không có gì báng bổ hay là phạm thượng khi lật ngược cấu trúc Hán-Nôm (tức Việt) chỉ chưa đến 1000 năm để chứng minh sự tồn tại của cấu trúc Việt-Hán-Việt hơn 5000 năm và có thể lâu hơn nữa.

Có rất nhiều trí giả Việt Nam tự nô dịch như vậy. Tự đồng hóa vì thấy văn hóa Hán quá đồ sộ với những tên tuổi vĩ đại. Và đôi khi tự đồng hóa chỉ vì sính ngoại. Chuyện sính ngoại cũng là lẽ thường tình. Ở dân tộc nào cũng có. Thời Pie Đại Đế dân Nga sính tiếng Đức, hàng Đức nên chi có hàng loạt thành phố có chữ burg phía cuối. Nhưng cái sính ở đây mang nhiều tính thực tế hơn. Vua Pie cho rằng ngôn ngữ Đức có quy củ chặt chẽ nên người Đức có một kỷ luật lao động tốt. Sính ngoại theo kiểu Việt Nam thì tôi thấy đất nước này không mất còn may. Đơn giản để lòe chữ, đơn giản đọc lên nghe nó hay. Tôi không hề hiểu từ xiao mei (tiểu muội) đọc lên nó hay hơn từ em gái thế nào?!

Nhiều người còn dẫn chuyện hay chữ của họ bằng câu “Cha ông ta có câu: Nôm na là cha mách qué.”. Văn hóa dân tộc phải ăn sâu vào tâm khảm của đa số dân chúng, một phần nhỏ trí thức giỏi chữ Nho (hay Anh, Pháp) đâu có tạo nên văn hóa dân tộc. Lại càng không phải do mấy trí giả sáng tạo ra câu “Nôm na là cha mách qué” (Tôi đồ rằng câu này trước đây có nghĩa khác, nhưng sau này do mức độ Hán hóa khá mạnh trong tầng lớp sĩ phu nước ta nên người ta hiểu câu này thành nghĩa khác). Vậy những lời phát biểu của thứ cha ông hư báng bổ văn hóa dân tộc thì có gì hay ho mà dẫn.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu và phục hồi lại lịch sử chân thật của dân tộc chúng ta cần có những bước đi chững chạc và sâu sắc. Chúng ta cần viết các công trình khoa học thật sự chứ không phải những bài viết thừa tinh thần dân tộc mà thiếu tính sáng tạo và lập luận khoa học. Những bài viết theo kiểu mì ăn liền lợi bất cập hại cho việc chứng minh nên văn hóa rực rỡ của người Việt cổ. Khác với các ngành tự nhiên, trong lĩnh vực khoa học xã hội thì các công trình khoa học ít khi được chờ đợi quốc tế công nhận. Công trình khoa học chỉ có thể được hay không được đăng ở báo chí chuyên ngành nào đó. Tờ báo càng uy tín thì tiếng vang càng lớn. Lúc đó bạn có thể có cơ hội thuyết phục được cộng đồng khoa học chấp nhận ý kiến và kết quả của mình. Có nhiều người sau đó dẫn chứng trong công trình khoa học của họ kết quả của bạn thì kể như bạn thành công một phần. Cái này được gọi là citation index-chỉ số dẫn. Citation index của bài báo nói riêng và của tác giả nói chung càng lớn thì con đường khoa học của ông càng có giá trị trên thế giới.

Công trình khoa học là một công trình trong đó phải có những phát kiến mới, ý tưởng mới, nghiên cứu mớiđể đưa kết những kết quả mớiDĩ nhiên, cũng có những phát kiến phát triển từ ý tưởng của người khác nhưng lúc đó tòa báo sẽ xem những phát kiến đó của anh đã đủ tầm cho một bài báo khoa học chưa. Vậy để làm sao đạt được các điều mới đó? Vâng, đó là công việc làm rất nhọc nhằn và dày công chứ tuyệt không thể nào là những lướt web, copy and paste và cải biên đơn giản được. Bởi vì sao? Vì đơn giản là để biết chắc những phát kiến của mình là mới thì phải đọc xem đã có ai từ trước đến nay trong chuyên ngành đó trên toàn thế giới đã đưa ra ý kiến đó chưa. Người mới bước chân vào ngành phải có thầy hướng dẫn là vì lẽ vậy. Ông thầy đã có nhiều bài báo chuyên ngành trên tạp chí tên tuổi thì càng có uy tín. Một mặt ông ta có thể chỉ cho chúng ta thấy những công trình của các nhóm nghiên cứu nào đã có nói đến vấn đề chúng ta quan tâm. Mặt khác, khi đăng báo có đứng liên danh với ông ta thì tòa báo biết rằng những kết quả trong bài báo gần như chắc chắn 100% là mới. Tiếc rằng nhiều thầy ở Việt Nam do thiếu tài liệu nên không thể biết hết các công trình trong ngành của mình!

Như bài viết này của tôi không thể gọi là một bài nghiên cứu khoa học; bất quá nó được gọi là bài quảng bá khoa học mang tính trao đổi thông tin và ý tưởng. Tuy có thể có phát kiến mới gì đó nhưng nó chưa đưa ra một kết quả mới nào trong việc giải quyết một vấn đề gì đó. Sở dĩ tôi viết tràng giang đại hải về vấn đề nghiên cứu khoa học là vì có rất nhiều “nhà” ở Việt Nam cứ viết là nghiên cứu khoa học nhưng dường như không hiểu rõ lắm cách thức hoàn thành một bài báo khoa học. Vậy chúng ta cần phải gạt bỏ nhiều huyễn tưởng là mình có phát kiến và kết quả mới bởi vì đôi khi biết đâu những phát kiến đó đã được viết ra cách đây 1 thế kỷ! Hiển nhiên, lúc đó công trình chúng ta nào có giá trị gì.

Tôi đánh giá công trình về 12 chi cua học giả Nguyễn Cung Thông rất hữu ích và là một công trình khoa học thật sự. Quả tình, nói thì nghe hơi quái dị nhưng các phát hiện về ngôn ngữ của anh Cung Thông lại khớp với những phát hiện Toán học (dĩ nhiên cho Kinh Dịch Nòng Nọc) lần phát hiện ngôn ngữ khác của tôi. Những bài viết này của anh Nguyễn Cung Thông đã đăng rồi thì chưa chắc sẽ được đăng ở tạp chí chuyên ngành trong ngoài nước nào đó. Nhưng theo tôi, có thể dịch nó và cô đọng lại thành những thesis để gửi đi các hội thảo chuyên ngành ở nước ngoài. Tôi đã từng được một thầy ở Nga mời đi dự hội thảo như vậy, nhưng bận quá không viết thesis được.

Đọc bài anh Cung Thông phần ngôn thì thấy hấp dẫn, nhưng đến phần ngữ lại hình như thiếu cái gốc. Đó là anh cũng phải chứng minh cho được mấy thứ chữ kia cũng phát nguồn từ Việt Tộc. Nhưng với tư cách là người đã từng nghiên cứu khoa học, tôi hoàn toàn hiểu anh ấy. Vì anh ấy chưa thể dám chắc về nhiều điều, ví dụ như thời gian và không gian sinh tồn của khối cộng đồng xen lẫn Hoa-Việt hoặc có thể người Hoa mượn ngôn nhưng nào chắc đã mượn ngữ. Trong khi chúng ta chưa tìm thấy một dấu ấn nào của chữ viết Việt bây giờ thì sự cẩn trọng đó là hợp lý.

Tôi cũng đánh giá rất cao các bài của anh Đỗ Thành. Tuy đó là những bài ngắn nhưng chúng rất xứng đáng là các công trình khoa học. Rất độc đáo, đặc biệt là cách phục hồi Duy Giáp Lệnh và Việt Nhân Ca.

Và tôi hoàn toàn tán thành cách suy luận của hai anh Đỗ Thành và Nguyễn Thiếu Dũng. Có ba ngờ vực duy lý của vấn đề này:

1         Sao là “cả”? Dân tộc anh siêu việt ghê quá cà, cái gì cũng của anh cả?! Xin thưa, văn hóa và ngôn ngữ phải xuất phát từ một gốc. Phải có cái rễ của nó. Và những cái cành từ rễ ấy mà ra. Phải là “cả” mới hợp lý vì thứ nhất, sự tương thích của các vấn đề văn hóa nói riêng và các thành tựu khoa học nói chung(tức là từ một gốc tre thì cho ra 10 cành tre chứ không thể nào cho ra 5 cành tre và 5 cành mai được), thứ hai, ủa chứ cắc cớ chi mà dân Việt đã làm ra gốc tre rồi và làm ra thêm 5 cành tre cho 5 hướng thôi còn các hướng khác hay chạm đến cuộc sống lại dốt đặc cán mai để cho người Trung Quốc họ đến họ trang điểm mấy cành mai vào kìa? Không, các vấn đề theo nhu cầu cuộc sống mà tự nó sinh ra và người Việt đã giải quyết nó bắng một triết lý hay là bằng một khoa học (lúc bấy giờ) nào đó cái mà tôi khẳng định là Kinh Dịch Nòng Nọc. Ví dụ, tôi đọc Hệ Từ Thượng thấy một câu rất lạ là: “lưới đánh cá có tượng là quẻ Ly”. Nếu theo các vạch rời và liền như Âm Dương bây giờ thì làm sao ra cho được quẻ Ly. Thật ra hình của Âm Dương của Việt Tộc ngày xưa là một vòng tròn và hai vòng tròn. Ta thấy lưới chài vì mềm nên ít khi đập vào mắt chúng ta một hình vuông hầu hết chúng ta thấy lưới chài là những hình thoi liên tục. Và một hình thoi như thế chính là quẻ Ly (đơn quái). Nếu quẻ Thuần Ly thành ra hai hình thoi thì càng giống về hình tượng của lưới chài. Vạch Âm Dương theo tôi bây giờ cũng không phải của người Trung Hoa; để viết nhanh gọn các quẻ người ta đã sáng tạo ra vạch Âm Dương sau đó và người Trung Hoa vì không tường tận từ gốc rễ nên cứ nghĩ đó là hai biểu thị Âm Dương từ nguyên thủy.

2        Các anh vơ hết vào thế các anh phủ nhận những đóng góp của các học giả Trung Hoa suốt mấy ngàn năm nay à? Ô hay, nào ai đã phủ nhận Hậu Thiên Bát Quái là của ông Chu Văn Vương (có khi cũng chưa chắc của ông ta!). Nào ai phủ nhận Mai Hoa Dịch Số là của ông Thiệu Khang Tiết? Nào ai phủ nhận Tử Vi hiện đại bây giờ là của Ngài Trần Đoàn?...Vấn đề phải xem chúng phát triển từ căn nguyên nào. Nó xuất phát từ một khẳng định, định lý, công thức đúng hay sai. Dĩ nhiên nguyên cứu những vấn đề phức tạp có liên quan đến một loạt vấn đề lớn như Kinh Dịch thì không thể nào rạch ròi trắng đen rõ ràng như các công thức Toán học trần trụi được. Vì các kiến thức Dịch đúng và sai chen lẫn vào nhau. Những người phát triển kiến thức Dịch từ những căn nguyên sai họ vẫn cứ dùng một số định đề của kiến thức Dịch đúng và họ hoàn toàn không lý giải được vì sao nó thế. Điều đó là có thật đến nay các bài toán Hệ Từ Thượng, Chu Dịch, Lục Thập Hoa Giáp vẫn chưa có ai giải đáp thấu đáo. Đến đây sẽ có người lại hỏi: “Anh nói người ta sai thế sao có bao nhiêu nhà Dịch học Trung Hoa lại có những đến quả đoán thần sầu?”. Thực ra chả có gì khó hiểu cả, bởi vì việc bói toán nó liên quan đến cả lý thuyết và thực hành mà vai trò chủ đạo vẫn là thực hành. Và từ dữ liệu A để suy ra kết quả B người ta đã thông qua các chiêm nghiệm thực tế (hay là Thống Kê) từ hàng ngàn năm nay. Và cái chính xác của bói toán còn phụ thuộc vào mức độ cảm ứng (hay khả năng nhận tín hiệu bằng ngoại cảm) khá chuẩn cua người xem.

3        Nếu anh nói thế thì sao có những khái niệm rất cơ bản dân tộc nào cũng có thể sáng tạo ra được từ nguyên lai sao người Hán lại dùng của người Việt chi kỳ vậy? Vi dụ như tôi cho rằng hai từ Nam Nữ (Nản nụy) đi từ nõn nường. Vì hai từ này nói chung là những khái niệm khá giản đơn thế sao người Hoa Hạ dùng của người Việt chi vậy? Thật ra, đây là hội chứng “sính ngoại” nhất là khi cái ngoại đó là của dân tộc phát triển hơn mình. Dân Hoa từ phía Bắc xuống gặp phải nền văn hóa rực rỡ của Việt Tộc một mặt họ tăng cường quân sự để chiếm lấy các thành tựu khoa học, mặt khác họ du nhập những sản phẩm văn hóa của dân tộc kia. Họ dần dần bỏ đi một số từ ngữ trước đây đã từng có của dân tộc họ bởi vì đơn giản họ xem nó có vẻ quê mùa và dùng từ ngữ của dân tộc có văn hóa phát triển hơn mình hoặc họ bắt buộc phải dùng nó để nó hài hòa, đồng nhất với các giá trị văn hóa ngoại lai du nhập khác (vi dụ chúng ta không thể dùng Mỹ người kế hoặc là Kế nhân đẹp được mà phải dùng Mỹ nhân kế). Cũng giống như người Việt sau này lại quay lại dùng từ Nam Nữ và ít dùng từ trai gái. (Nõn Nường trong ngôn ngữ Việt cổ không có nghĩa là trai và gái).

(anviettoancau.net)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét