29 thg 6, 2011
Mỹ có yếu đi
8 thương hiệu khổng lồ của
Mỹ đang lép vế trên sân nhà Những thương hiệu nổi danh
của Mỹ như GM, Dell hay
Boeing lại chính là kẻ thất bại
nhiều nhất trước các đối thủ
ngoại. Dưới đây là danh sách những
công ty của Mỹ bị thất thế
mạnh nhất so với những đối
thủ cạnh tranh từ nước ngoài
theo tổng hợp của 24/7Wallst. 1. GM và Toyota Năm 1991, GM chiếm 35% thị
phần sản xuất ôtô của Mỹ.
Nhưng đến nay, con số này đã
giảm đi 20% do sự cạnh tranh
khốc liệt từ các hãng xe đến từ
Nhật Bản mà điển hình là Toyota. Vào thời điểm trước
khi xảy ra vụ việc triệu hồi
hàng loạt xe, Toyota đã chiếm
tới 17% thị trường sản xuất
ôtô ở Mỹ. Con số này vào
khoảng mười năm trước đây chỉ là khoảng 8%. Một số hãng
khác như Honda và Nissan
cũng chiếm một tỷ lệ tương
đối. Có rất nhiều lý do giải thích
cho sự suy giảm của GM, nổi
cộm là những vấn đề như chi
phí quá cao, thậm chí cao nhất
trong số những nhà sản xuất.
Trong khi đó, chi phí lao động của Toyota lại tương đối thấp,
nhất là đối với những nhà máy
tại Nhật Bản. Ngoài ra, chất lượng của
những chiếc xe mà GM sản
xuất ra được cho là ngày càng
kém, còn của Toyota lại được
cho là tốt hơn. Cũng do chất
lượng kém khiến GM xếp thứ hạng thấp trong cuộc khảo sát
người tiêu dùng do tạp chí
Power and Consumer Reports
thực hiện. Hiện nay, thị trường
Mỹ nói chung và thị trường ôtô
nói riêng thì không hề phẳng lặng. Những hãng xe Hàn Quốc
như KIA hay Hyundai, sản xuất
với chi phí thấp, chất lượng lại
tốt cũng đã dần thâm nhập thị
trường này, chiếm khoảng 7%
thị phần. Các chuyên gia cũng dự báo rằng, thị trương sẽ còn
tiếp tục bị "chia sẻ". 2. Dell và Acer Trong một thập kỷ trở lại đây,
công ty sản xuất máy tính Dell
từng thống trị thị trường Mỹ
và chiếm phần lớn thị phần
trên toàn thế giới. Hewlett-
Packard thì ngược lại, chiếm thị phần nhỏ hơn. Công ty sản
xuất máy tính HP được thành
lập khi Hewlett-Packard mua
hãng Compaq trong năm 2002
với 25 tỷ USD. Thế mạnh thị
trường của các công ty Mỹ giảm xuống khi Lenovo mua
lại công ty sản xuất máy tính
IBM vào năm 2004 để Lenovo
có thể tham gia thị trường Mỹ
và châu Âu. Dell lại tiếp tục gặp vận rủi khi
netbook những năm gần đây
trở nên phổ biến. Ngày càng
nhiều người đến mua những
sản phẩm của Acer và Asus.
Vào năm 2007, Acer mua lại công ty Gateway và trở thành
công ty sản xuất máy tính lớn
thứ 3 trên thế giới. Thị phần
của Dell giảm xuống nhanh
chóng từ 16,4% vào năm 2005
xuống còn 12,9% vào năm 2010 (nguồn thông tin từ
Gartner). Cũng trong thời ký
đó, thị phần trên toàn thế giới
của Acer tăng từ 5,5% lên
12,7%. 3. Intel và ARM Intel chiếm 3 phần 4 thị
trường thế giới về chip máy
tính và máy chủ. Rắc rối của
Intel đến từ sự phát triển
nhanh chóng trong lĩnh vực
bán dẫn cho các thiết bị cầm tay như điện thoại và máy tính
bảng. Nhà cung cấp hàng đầu của thị
trường này là Qualcomm,
Texas Instrument và Samsung.
Những sản phẩm đó được dựa
trên thiết kế của ARM. ARM đã
sử dụng lợi thế về những mối quen biết của họ với những
nhà sản xuất thiết bị cầm tay
để cạnh tranh với Intel trong
thị trường máy tính. Theo dự đoán của IDC, thị phần
của ARM sẽ tăng lên 13% vào
năm 2015. Có nhiều tin đồn
rApple đã hoàn thành dự án
của mình về việc sử dụng chip
của ARM cho máy tính bảng của họ. Và chưa hết, ARM đang
đi đầu trong việc phát triển
những thiết bị cầm tay không
dây và điều này sẽ giúp ARM
chiếm thêm được thị phần
trong thị trường máy tính ở tương lai không xa. 4. Boeing và Airbus Boeing đã từng là công ty
thống trị thị trường thế giới
trong ngành sản xuất máy bay
dân dụng trong 3 thập kỷ, bắt
đầu từ thời điểm công ty mua
lại đối thủ cạnh tranh của nó là McDonald Douglas với giá 13,3
tỷ USD vào năm 1996. Vào thời
điểm đó hãng Airbus chưa phải
là một đối thủ cạnh tranh đáng
lo ngại như hiện nay. Nhưng
năm ngoái, Airbus đã nhận được 574 đơn hàng trong khi
đó Boeing chỉ nhận được 530
đơn đặt hàng. Có 2 nguyên nhân gây ra sự
thay đổi: thứ nhất, Airbus đã
nhận được sự trợ giúp về tài
chính của chủ sở hữu công ty.
Nguyên nhân thứ 2 chính là
quản lý yếu kém của Boeing. Chiếc 787 Dreamliner đã bị lỗi
hẹn ít nhất nửa tá lần và chính
điều này đã làm những hãng
hàng không đã phải xem xét
đến Airbus. 5. Microsoft và Nintendo Ngành kinh doanh game
console đã có vào bước thay
đổi về thị phần từ việc phát
hành một sản phẩm thành
công nhất trong lịch sử vào
năm 2000 đó là chiếc máy Playstation 2 (đã bán được 150
triệu bản). Những thế hệ gần
đây nhất của game console
bao gồm Xbox 360, PS3 và
Nintendo Wii. Sonny từng
thống trị thị trường này bởi thế hệ máy PS2, Microsoft
đang giữ giá cạnh tranh với
thế hệ máy Xbox của mình. Nintendo gia nhập thị trường
với hệ máy Wii được thiết kế
để chơi những game thông
thường mà những máy như
PS3 và 360 không có và chính
điều nay đã làm nên tên tuổi của họ. Vào năm 2006, khi Wii
chỉ chiếm 23% thị phần thế
giới còn Microsoft chiếm 65%
thì đến năm 2009, thị phần của
Wii đã là 50% trong khi
Microsoft chỉ có 23%. 6. Goodyear và Bridgestone Goodyear trong nhiều thập kỷ
từng là công ty lớn nhất ở
Akron, Ohio - thủ đô cao su của
thế giới. Goodyear cũng từng
là nhà sản xuất lốp xe lớn nhất
thế giới, họ cung cấp một lượng lớn lốp xe cho Big Three
(công ty thao túng cả ngành
công nghiệp xe hơi của Mỹ
những năm 1980). Công ty gặp
phải một vấn đề đáng lo ngại
chính là giá nhân công rất cao so với các đối thủ cạnh tranh
của họ, và đặc biệt với
Bridgestone. Brigdestone đã mua Firestone
vào năm 1988, năm sau đó,
Michelin mua Dunlop.
Bridgestone đã quyết định một
thương vụ sát nhập để tăng thị
phần của mình. Doanh thu của hãng tăng từ 13,5 tỷ USD lên
20,5 tỷ USD trong năm từ 1999
đến 2009, theo Bruce Davis của
tờ Tire Business, Goodyear chỉ
tăng doanh thu từ 11,5 tỷ USD
đến 15,6 tỷ USD trong cùng khoảng thời gian. 7. Charles Schwab và TD
Ameritrade Charles Schwab bắt đầu cung
cấp dịch vụ môi giới chiết
khấu vào năm 1975 và là công
ty đầu tiên gia nhập ngành
này. Merrill Lynch-một công ty
môi giới trọn gói đã từng cho rằng Schwab sẽ không phát
triển được, họ cho rằng khách
hàng muốn một dịch vụ trọn
gói và sẽ không đầu tư nếu
thiếu những nghiên cứu mà
những công ty này cung cấp. Nhưng họ đã sai. Doanh thu
của Schwab năm ngoái là 4,25
tỷ USD. Công ty TD Ameritrade-
công ty của Canada bắt đầu tại
Mỹ từ năm 1987, qua những
lần sát nhập và hiện nay là Accutrade. Doanh thu của
Ameritrade tăng từ 2,54 tỷ USD
lên 2,56 tỷ USD trong năm từ
2008 đến 2010. Trong cùng
thời gian đó, doanh thu của
Schwab giảm xuống từ 5.15 tỷ USD xuống còn 4,25 tỷ USD. 8. Omnicom và WPP WPP là tên viết tắt của Wire
and Plastic Products, hoạt
động của công ty được quản lý
bởi Martin Sorrell vào năm
1985. Hiện nay WPP là công ty
marketing lớn nhất thế giới với doanh thu 12,1 tỷ USD và
hơn hẳn so với doanh thu 11,7
tỷ USD của công ty Omnicom
trong năm 2009 Tạ Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét