28 thg 1, 2011

Quân sự quốc phòng

Cách dùng từ để chỉ việc, quân sự quốc phòng là rất phù hợp, quân sự là việc cuối cùng phải làm khi không còn cách nào khác. Quốc phòng là việc làm thường nhật, làm điểm tựa cho sức mạnh quân sự.
Nói đến quân sự là nói đến vũ khí, ở ta còn có vũ khí tư tưởng. Khoan nói đến vũ khí tư tưởng, vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, nhất là vũ khí công nghệ cao không thể thiếu trong chiến tranh hiện đại. Điều này không đáng ngại vì thanh niên Việt Nam có khả năng tiếp cận công nghệ rất nhanh. Lấy xe máy, vi tính, điện thoại làm ví dụ, lấy các tụ điểm internet làm ví dụ, khắp hang cùng ngõ hẻm trong một thời gian ngắn đã tràn ngập người biết sửa chữa, biết sử dụng.
Sử dụng vũ khí, sử dụng cách đánh không là vấn đề lớn. Vấn đề là niềm tin giữa con người với nhau khi tất cả mọi thứ kể cả tình cảm đều đã được tiền tệ hóa.
Lực lượng chính trị lãnh đạo xã hội chính là lực lượng được tiền tệ hóa nhanh nhất, mạnh nhất. (Không ai phủ nhận sức mạnh của tiền vì chúng chính là sức người được kết tinh trong đó. ) Cái cách sử dụng lợi thế không chính đáng, không tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội, chỉ với những tập tục oái oăm méo mó mới phát sinh mà các luồng tiền chảy về nơi có thế lực một cách nhanh chóng. Niềm tin vào chính nghĩa trong xã hội mòn dần, tiệm cận đến mất niềm tin vào bất cứ điều gì. Khi mất niềm tin con người chỉ hành xử theo bản năng, không còn lực lượng nào có thể lãnh đạo được xã hội nữa.
Người Việt từ lâu đã phát hiện ra vũ khí tinh thần, mà cốt lõi của nó là niềm tin. Quân sự bách chiến bách thắng nhờ quốc phòng mạnh, quốc phòng mạnh nhờ niềm tin mãnh liệt vào chính nghĩa. Niềm tin chính nghĩa phụ thuộc vào hành vi của các tầng lớp lãnh đạo xã hội, phụ thuộc vào hành vi của các tầng lớp ưu tú trong xã hội.
Quốc phòng mạnh trong một xã hội lành mạnh, quân sự mạnh trong một nền quốc phòng mạnh, thắng lợi trên chiến trường khi quân sự mạnh. Cách đánh hay sẽ tạo ra chiến thắng. Con người có cách đánh hay là con người có niềm tin.